Chú mèo Moumouth được Madame de la Grenouillère nhặt về trong một chuyến công du. Nhưng tên quản gia của bà không mong gì hơn cái chết của chú mèo tội nghiệp.
Người dịch: Thư Đặng (Thư Lam)
Giám sát: Đào Uyênn (Tetsuko)
Soát lỗi: Minh Huy (Wowjbu), Tân Nguyễn (Xeko), Cát Huyền(VarinX)
Biên tập: Thu Anh (Cốm) Minh Huy (Wowjpu)
Thiết kế bìa: Tân Nguyễn (Xeko)
Tải sách:
Chương 1.
Cách mẹ Michel làm quen với mèo của bà
Dưới thời vua Louis thứ XV, tại thành Paris xinh đẹp có một vị phu nhân bá tước giàu có và già nua, tên là Yolande de la Grenouillère. Bà là người đáng kính có tấm lòng hảo tâm. Phu nhân không chỉ giúp đỡ những người nghèo trong giáo xứ Saint-Germain-l’Auxerrois nơi bà sinh sống, mà còn đỡ đần những kẻ khốn cùng ở vùng lân cận. Chồng của bà, bá tước Roch-Eustache-Jérémie của Grenouillère đã vinh quang hy sinh trong trận Fotenoy, vào ngày 11 tháng 5 năm 1745. Phu nhân Grenouillère bất hạnh trở nên goá bụa, ngày ngày sầu thương cho người chồng đã khuất ngay cả khi nước mắt đã ráo hoảnh trên gương mặt bà. Tình cảnh không có con cái và sống trong cô độc đã hình thành trong phu nhân sở thích kì lạ, kì lạ nhưng không hề lệch đi với đức hạnh và bản tính dễ mến của bà. Đó là niềm mê say nuôi dưỡng thú cưng. Nhưng trái ngang thay, bất kì thú vật nào được bà nuôi dưỡng đều đoản mệnh.
Đầu tiên, đi theo mốt đương thời bà nuôi một chú vẹt sắc lục. Nhưng con vẹt đã bất cẩn ăn phải vài cọng mùi tây rồi đau bụng dữ dội và chết. Tiếp theo, chú chó mặt xệ cũng bị thần chết đem đi sau một cơn ngộ độc bánh quy ngọt. Sủng vật thứ ba của bà là một chú khỉ. Loài sinh vật thú vị nhưng ham chơi đã phá hỏng xiềng xích trong một đêm nọ, để leo trèo trên những tán cây trong vườn ngay dưới cơn mưa rào tầm tã. Rồi chú bị sốt nặng và cũng ra đi ngay sau đó.
Tiếp theo đó, nữ bá tước cũng nuôi đủ loại chim nhưng có con bay mất, có con lại chết đơ vì bệnh về đường hô hấp. Suy sụp bởi những tai nạn không may, nữ bá tước Yolande de la Grenouillère chìm trong nước mắt. Trước bất hạnh của nữ bá tước, bạn của bà gợi ý rằng bà nên nuôi sóc, chim hoàng yến, chuột bạch, vẹt mào; nhưng bà không nghe họ. Bà thậm chí còn từ chối chú chó spaniel, loài vật thông minh có thể chơi domino, nhảy theo nhạc, biết ăn salad và dịch tiếng Hy Lạp.
“Không, không.” Phu nhân nói: “Tôi không muốn nuôi bất kỳ con nào nữa, không khí của nhà tôi đầu độc tất thảy.”
Cuối cùng Nữ bá tước tin vào số mệnh cô độc của bà.
Một ngày nọ, trong lúc đang rời khỏi nhà thờ, bà bắt gặp một đám con nít đang ganh nhau chạy hối hả, miệng cười ồn ã. Ngồi trên xe ngựa, bà nhìn ra toàn cảnh đám đông đang ầm ĩ ấy và nhận thấy nguyên nhân của sự ầm ĩ này là một chú mèo đáng thương đang bị rượt đuổi, đuôi chú bị buộc vào một cái chảo.
Chú mèo khốn khổ hiển nhiên đã bị rượt chạy rất lâu và có vẻ như đã thấm mệt. Thấy chú chạy chậm lại, lũ người hành hạ vây quanh chú và bắt đầu ném đá lên người chú. Sinh vật đáng thương không còn cách nào khác ngoài khom người lại chịu đựng, khi xung quanh chú chỉ còn kẻ thù độc ác. Chú cam chịu phận bạc của mình với tinh thần anh hùng La Mã can trường. Vô số hòn đá đập vào người chú khiến phu nhân Madame de la Grenouillère lòng không kìm được thương cảm. Bà bước xuống xe ngựa và gạt lũ trẻ con ra một bên, bà dõng dạc: “Ta sẽ phát cho kẻ cứu lấy con mèo một đồng louis!”
Câu nói của bà ngay lập tức tạo ra hiệu lực kỳ diệu; lũ trẻ từ kẻ hành hạ quay ngoắt thành người giải cứu; chú mèo khốn khổ nay lại phải chịu đựng lũ nhóc tranh giành nhau hòng trở thành vị cứu tinh của chú. Cuối cùng một trong số vị anh hùng Hercules ấy cũng có người đánh bại hết các đối thủ, rồi dâng lên cho nữ bá tước chú mèo còn thoi thóp.
“Tốt lắm,” Bà nói: “Đây, chú bé dũng cảm, phần thưởng mà ta đã hứa hẹn.” Rồi bà trao cho cậu bé một đồng Louis mới đúc, vàng sáng bóng, rồi nói thêm: “Giải thoát cho con mèo khỏi của nợ phiền phức này.”
Trong lúc thằng bé nhận lệnh, phu nhân de la Grenouillère quan sát con vật mà bà đã cứu được. Quả là một con mèo hoang thực thụ. Độ gớm ghiếc của nó tăng dần theo quãng đời lai vãng nơi đầu đường xó chợ; lớp lông ngắn bê bết bùn khiến người ta khó có thể nhận ra bộ lông xám tro vằn đen của chính nó. Thân thể chú gầy rộc chỉ còn da bọc xương. Thật dễ để có thể đếm số xương sườn teo tóp hai bên mình chú. Ngay cả một con chuột đang chán chường cũng đánh bật được nó. Điểm đáng nhắc đến duy nhất ở con mèo là gương mặt.
“Trời đất, trông nó thật xấu xí!” Phu nhân de la Grenouillère nhận xét, sau khi đánh giá kỹ con mèo.
Lúc bà quay gót vào trong xe, con mèo nhìn theo bà bằng đôi mắt xanh trà pha màu biển, ánh mắt ra chiều xa lạ, mông lung nhưng cũng đong đầy lòng biết ơn mà ai oán, và thế là nhiêu đó biểu cảm đã khiến vị phu nhân nhân từ, để tâm không thể dứt ra được. Bà nhìn được trong mắt nó những diễn giải đầy thuyết phục. Cái nhìn như muốn nói rằng:
“Phu nhân đã nương theo bản tính thiện lương của mình; phu nhân đã chứng kiến cảnh tôi yếu đuối, đau đớn, bị áp bức và người thương lấy tôi. Bây giờ khi sự tử tế của người được thỏa nguyện thì người lại khinh thị vẻ ngoài dị dạng của tôi. Tôi cứ nghĩ người thực sự tốt, nhưng hóa ra lại không hề; thiên hướng của người có thể là tính bản thiện nhưng người không hề tốt bụng. Nếu người thực sự nhân từ như thế thì người phải quan tâm đến lý do tại sao tôi lại trở nên xấu xí như thế này. Phu nhân sẽ ngẫm được rằng chính quãng đời bất hạnh mới là tác nhân khiến tôi trở nên khó ưa, và như thế,—người có nên bỏ tôi lại, mặc tôi với lòng nhân từ của lũ trẻ quỷ quyệt,—như thế, tôi quả quyết rằng, chả có gì thay đổi cả. Đi đi! Đừng có tự hào vì sự tử tế nửa mùa của mình!— người không giúp được gì hết; phu nhân chỉ kéo dài thêm nỗi đau của tôi mà thôi. Tôi là một con mèo hoang, cả thế giới này thù ghét tôi, kiểu gì cũng bị người ta giết; ứ để số phận an bài đi!
Madame de la Grenouillère rưng rưng nước mắt. Trong mắt bà, chú mèo như một người hùng— không đúng, nó là một con mèo; ột chú mèo anh hùng. Bà nghĩ về sự nhiệm màu của phép biến hình, tưởng tượng rằng chú mèo trước khi bị biến về hình dạng này đã từng là một nhà hùng biện nổi danh, có địa vị cao quý. Phu nhân nói với nữ hầu của mình, mẹ Michel, người đang ngồi trong xe ngựa,—
“Mang nó về.”
“Sao cơ, phu nhân định đưa nó về thật sao?” Mẹ Michel kêu lên.
“Tất nhiên. Miễn là nó còn sống, thì chỗ của nó là nơi lò sưởi ấm áp hoặc trên bàn của ta. Ta sẽ hài lòng nếu bà đối xử với nó yêu mến và ân cần như đối với ta.”
“Vâng, Mệnh lệnh của người sẽ được tuân theo.”
“Tốt,—nào, về nhà!”
Chương 2.
Cách chú mèo quen với cảnh sống với Madame de la Grenouillère, và tin cậy sự chăm sóc của mẹ Michel
Madame de la Grenouillère ở trong một dinh thự xa hoa nằm tại góc nối giữa đường Saint-Thomas-du-Louvre và Orties-Saint-Louis; phu nhân sống một cuộc đời ẩn dật với chỉ duy nhất hai người hầu thân cận, một là bà Michel-nữ hầu và cũng là người bạn tâm tình của bà, người thứ hai là ông quản gia M. Lustucru. Cả hai đều đã già cả và vị nữ bá tước điểm nhẹ khiếu hài hước của mình bằng cách gọi hai người là Mẹ Michel và Cha Lustucru.
Ngoại hình của Mẹ Michel mang đậm nét tính cách hòa nhã của bà; Bà cởi mở và bộc trực trong khi Cha Lustucru giảo hoạt mà cẩn trọng. Ai không biết thì rất dễ bị vẻ đạo mạo bên ngoài của cha Lustucru đánh lừa; Nhưng những người có óc quan sát sắc bén đều nhận ra được tính ngang ngạnh ẩn dưới lớp mặt nạ tốt đẹp kia. Sâu trong đôi mắt xanh biếc của ông ánh lên chút tráo trở, còn bành ra nơi lỗ mũi là từng cơn cáu kỉnh. Ông có chóp mũi thon nhọn trông ra xảo quyệt và vẻ ác nghiệt hiển hiện qua đường viền môi của ông.
Tuy nhiên, ông ấy mặc cho tính cách như vậy nhưng vẫn chưa lần nào phụ bạc danh dự của bản thân mình; ông giữ mình không để cho sự trung thực tiêu biến đi đồng thời che giấu hết những góc khuất đen tối trong bản năng của mình. Nhưng tính bản ác của ông như lũ gặm nhấm chưa được châm ngòi, chỉ đợi thời cơ để bộc phát.
Lustucru ghét động vật, nhưng, để lấy lòng bà chủ, ông ta giả vờ như yêu mến chúng. Nhìn thấy Mẹ Michel ôm lấy chú mèo, ông nghĩ thầm:
“Hừ, lại thêm một con súc sinh! Chưa đủ lũ chúng nó trong cái nhà này ư!”
Ông ta không kìm được mà trao cho kẻ mới đến cái lườm ác ý; rồi rất nhanh chấn chỉnh lại cảm xúc của mình, ông ta kêu lên đầy tha thiết:
“Trời đất, chú mèo xinh quá! Một chú mèo xinh đẹp! Đẹp hơn con mèo trước đó!” Và ông ta vuốt ve chú mèo với cung cách đầy giả tạo.
“Thật sao?” Madame de la Grenouillère nói: “Ông không thấy nó xấu xí sao?”
“Xấu thật! Nhưng nó có đôi mắt thực duyên dáng. Tuy nhiên, ví như nó kinh khủng thì sự hứng thú của phu nhân đối với chú mèo sẽ thay đổi nó.”
“Lúc đầu ta không ưa nó.”
“Ai ghét lúc ban sơ thì về sau sẽ là người yêu nhiều hơn,” Cha Lustucru đáp lại tỏ vẻ ta đây thông thái.
Họ bắt đầu tiến hành làm một cái nhà vệ sinh dành cho mèo, vì sợ nước là bản năng của loài mèo, tuy thế chú vẫn ngoan ngoãn chịu để người ta tắm cho; hình như chú hiểu thế này là để cải thiện nhan sắc của mình. Sau khi chú mèo nhấm nháp ngon lành đĩa thịt xé, họ sắp xếp thời gian cho các bữa ăn của chú, những hoạt động của chú trong ngày, và nơi để chú ngủ.
Họ muốn đặt tên cho chú. Mẹ Michel và Cha Lustucru đưa ra nhiều cái tên khá hay, như Mistigris, Tristepatte,... nhưng nữ bá tước không thích. Bà muốn đặt cái tên gợi lên hoàn cảnh chú mèo được nhận nuôi. Ngày hôm sau bà mời một vị học giả già tới để tham khảo ý kiến, ông gợi ý cái tên Moumouth, bao gồm hai từ Hebrew có nghĩa là được cứu khỏi cái chảo.
Mấy ngày sau, Moumouth thay đổi hoàn toàn. Được chăm sóc cẩn thận lông chú trở nên óng mượt, ăn uống đủ chất giúp chú đầy đặn hơn; râu mép của chú vểnh lên như râu của chàng lính ngự lâm thế kỷ XVII; đôi mắt màu ngọc lục bảo nay sáng lên có thần thái hơn. Chú chính là bằng chứng sống cho việc giá cả thế nào chất lượng thế đó. Chú được như thế này phần nhiều là nhờ sự chăm bẵm của Mẹ Michel, người mà chú thương yêu trìu mến; ngược lại đối với Cha Lustucru, chú thể hiện sự ghét bỏ rõ rệt. Trực giác như nói cho chú biết nơi đây có một kẻ thù, và chú cự tuyệt mọi thứ có dính dáng đến tên quản gia. Tuy nhiên, hai người cũng không phải chạm mặt nhau quá nhiều. Những ngày của Moumouth tại dinh thự bá tước trôi qua trong hạnh phúc, và tương lai tươi sáng như đang mỉm cười hứa hẹn với chú. Nhưng như thanh gươm treo đầu sợi chỉ, nguy cơ lủng lẳng treo trên đầu của người và của mèo. Vào ngày 24 tháng 1 năm 1753, Moumouth rầu rĩ bất thường; trước sự cưng chiều của Madame de la Grenouillère chú thậm chí còn không phản ứng gì; chú mèo bỏ bữa, và dành cả ngày để lùi lũi bên góc lò sưởi, giương đôi mắt thê lương nhìn ngọn lửa. Chú có linh cảm về điều xấu sắp xảy ra, và bây giờ bất hạnh thực sự tìm đến cửa.
Đúng đêm hôm đó, người báo tin từ lâu đài Château de la Gingeole ở Normandy gửi đến cho nữ bá tước một bức thư của em gái bà. Bức thư viết rằng trong lúc xuống xe ngựa cô không cẩn thận ngã gãy chân và cô khẩn cầu người họ hàng duy nhất của mình đến thăm một lần. Madame de la Grenouillère quá thương cảm và tốt bụng nên không thể chần chừ trước lời thỉnh cầu như vậy.
“Ta sẽ khởi hành vào ngày mai.” Bà quyết định.
Trước những lời đó, Moumouth đang dõi theo bà chủ, rên lên một tiếng miau đầy u uất.
“Moumouth tội nghiệp!” Nữ bá tước cảm thán, “Chúng ta sẽ phải xa nhau! Ta không thể mang ngươi theo cùng được. Em gái ta ghét mèo; nó coi loài mèo là lũ bội bạc. Vu khống cả thôi! Lúc còn bé nó có chơi cùng với một chú mèo con nhưng con mèo quá phấn khích đã cào phải nó. Con mèo cố ý sao? Không, móng con mèo chỉ quá bén thôi. Tuy thế, từ đó trở đi em gái ta thề rằng sẽ ghét bọn mèo mãi mãi.”
Moumouth nhìn bà chủ của mình như muốn nói rằng,__
“Nhưng ít nhất còn có người, người mang công lý đến cho chúng tôi, người thực sự là một nữ anh hùng.”
Sau ít phút trầm ngâm, nữ công tước dặn dò,__
“Mẹ Michel, ta phó thác Moumouth cho bà.”
“Chúng tôi sẽ chăm sóc nó thật cẩn thận, thưa bà,” Cha Lustucru đáp lời.
“Ta xin ông, đừng bận lòng vì Moumouth,” ngừng một chút, bà tiếp. “Ông biết là Moumouth không thích ông lắm; sự hiện diện của ông sẽ quấy quá nó. Tại sao như vậy thì ta không biết, nhưng ông sẽ khiến nó chịu không nổi.”
“Quả thực là như vậy.” Cha Lustucru thừa nhận với vẻ ăn năn; “nhưng thật không công bằng, tôi thật sự yêu mến nó mà nó lại ghét tôi.”
“Em gái của ta cũng không công bằng. Mèo, có lẽ, vẫn yêu thích nó nhưng nó lại thù ghét loài mèo. Ta tôn trọng quan điểm của cô ấy cũng như ta tôn trọng thái độ của Moumouth đối với ngươi.” Sau khi nghiêm túc nhấn mạnh ý kiến của mình bà quay qua Mẹ Michel.
“Đây là việc của bà, mẹ Michel ta chỉ phó thác nó cho mỗi mình bà thôi. Mang cho ta một chú mèo khỏe mạnh khi ta trở về, và ta sẽ đền đáp bà thật hậu hĩnh. Ta đã 65, bà trẻ hơn ta mười tuổi; có nghĩa là bà sẽ còn sống trong thời khắc ta lâm chung”___
“Ôi, phu nhân! Tại sao người lại nhắc đến chuyện buồn như vậy?”
“Để ta nói cho xong cái đã. Để ngăn ngừa rủi ro khi ta chết, ta đã nghĩ sẽ trợ cấp cho ngươi một khoản khá thoải mái; nhưng, nếu ngươi chăm Moumouth cho ta, khoản tiền đó sẽ là một nghìn năm trăm đồng livre.”
“Phu nhân ơi!” Mẹ Michel nói vẻ xúc động, “Người không cần thiết phải thanh toán sòng phẳng như vậy; bản thân tôi cũng yêu quý Moumouth, và tôi sẽ luôn tận tâm chăm sóc nó.”
“Tôi chắc chắn là như vậy, và tôi cũng có thể thưởng cho lòng nhiệt tâm của bà.” Trong suốt cuộc đối thoại, cha Lustucru tập trung hết sức để không để lộ ra sự ghen tị của mình.
“Cái gì cũng của bà ta hết, tôi thì không có cái gì!” Ông ta tự nhủ. “Một nghìn năm trăm đồng livre một năm! Đó là cả một gia tài, và bà ta sẽ có được nó! Không đâu! Bà ta sẽ không có một cắc nào hết!”
Sáng ngày hôm sau, lúc bảy rưỡi, bốn con ngựa kéo khỏe mạnh đã lên cương sẵn sàng để chở vị nữ bá tước đáng kính trọng đến Normandy. Bà chào tạm biệt Moumouth lần cuối, ôm nó vào lòng, rồi bước vào trong xe ngựa.
Đến lúc đó, Moumouth bỗng lờ mờ cảm thấy khó chịu; và cũng trong thời khắc ấy nó hiểu ra tất cả! Nó thấy chủ nhân của mình rời đi; và choáng lấy nó là suy nghĩ rằng nó sẽ mất bà mãi mãi. Nó hướng về phía bà, cúi chào thật sâu.
“Mày phải ở lại đây thôi,” Madame de la Grenouillère nói, bà cố gắng kìm lại những giọt nước mắt chia ly.
“Liệu tôi có nên tin tưởng không?” —rồi chú mèo cũng khóc.
Để kết thúc cảnh chia ly đau khổ này, mẹ Michel ôm lấy chú mèo trên vai và gỡ nó ra khỏi ghế ngồi của xe ngựa. Những con ngực giật lấy dây kéo và chạy với tốc độ ba dặm một giờ. Moumouth oằn mình lại chấn động rồi ngã ra ngất xỉu.
Madame de la Grenouillère, vươn ra khỏi ô cửa xe, vẫy khăn mùi soa về phía dinh thự, kêu lên:
“Mẹ Michel, nhớ chăm sóc Moumouth cẩn thận!”
“Phu nhân cứ an tâm; Tôi thề người sẽ có một chú mèo khỏe mạnh và mập mạp khi người trở về.”
“Còn tôi thề,” cha Lustucru thì thầm, “Tôi thề con mèo đó sẽ chết!”
Chương 3.
Tình thương của mẹ Michel và ác tâm của cha Lustucru
Mẹ Michel, xứng đáng với sự tin tưởng của chủ nhân, bà đối xử với Moumouth bằng sự ân cần dịu hiền của người mẹ. Bà chăm sóc, cưng nựng chú mèo rất mực chu đáo, tỉ mỉ, mà kết quả là Moumouth trở thành chú mèo xinh đẹp nhất khu phố nơi nuôi dưỡng những con mèo tuyệt đẹp. Mẹ Michel coi chừng nó mọi lúc, đồ ăn của nó luôn được chọn lựa kỹ lưỡng, và hằng đêm bà đặt nó lên chiếc giường lông ngỗng êm ái nhất trần đời.
Lo sợ rằng Moumouth sẽ ngã bệnh, và mong có thể khiến bản thân biết đến những chứng bệnh mà loài mèo có thể mắc phải, bà thu thập đống sách vở về mèo. Cống hiến của mẹ Michel còn vượt xa hơn khi bà đọc cuốn “Lịch sử loài mèo” của tác giả François-Auguste Paradis de Moncrif, thành viên của Viện hàn lâm Pháp.
Nỗ lực của mẹ Michel không đến từ những nguyên nhân tầm thường dính dáng đến lợi ích cá nhân. Bà nghĩ rất ít cho bản thân hay là cho tâm hồn lương thiện già cỗi của mình! Hài lòng với số ít mình nhận được, cuộc sống của bà luôn toàn vẹn. Bà không yêu cầu gì nhiều ngoài một căn phòng nhỏ, bánh mì nâu, gỗ sưởi cho mùa đông, và guồng xe chỉ. Nhưng mẹ Michel có cháu trai và cháu gái, những đứa trẻ vàng ngọc của bà mà bà mong có thể đỡ đần phần nào. Đối với họ, bà được định trước sẽ đem đến những món quà của Madame de la Grenouillère.
Mọi chuyện càng tốt đẹp cho Moumouth càng khiến cha Lustucru bất mãn. Nỗi sợ rằng người bảo vệ trung thành sẽ được tưởng thưởng trong nay mai lớn dần lên trong ông ta. Ông ta ngày đêm mộng tưởng ngăn chặn được chuyện đó,---bắt cóc đi nhỏ học trò bốn chân của bà ta, khiến bà ta phải chịu đựng cơn thịnh nộ của chủ nhân. Cha Lustucru thỏa mãn lòng hận thù và ghen tị của mình trong tâm tưởng, và nhờ đó ít ra ông ta chưa làm ra tội nghiệt gì.
“Làm sao đây?” Ông ta suy tính, “Làm sao để có thể tống cổ con mèo khốn nạn ấy? Ta nên dùng cách nào? Thiêu trong lửa, hạ độc, hay dìm trong nước? Ta sẽ thử nước!”
Giải pháp đã được thông qua, ông ta suy tính phương án hành động. Rất khó để có thể bắt được con mèo mà không để Mẹ Michel phát hiện, nhất là khi bà ta không bao giờ để con mèo thoát khỏi tầm mắt mình; và cả Moumouth nữa, nó không bao giờ dành chút tin tưởng nào cho tay quản gia, lúc nào cũng trong trạng thái phòng bị. Lustucru nằm vùng mấy ngày liền chờ thời cơ thích hợp.
Một đêm nọ, sau khi đánh chén bữa tối tuyệt vời, Moumouth cuộn mình cạnh lò sưởi phòng khách, và ngủ ngon lành dưới chân mẹ Michel với cái bụng căng tròn. Vào lúc này, cha Lustucru đi vào phòng.
“Tốt!” Ông ta nghĩ. “Con mèo đang ngủ. Để ta xử lý người bảo vệ cho đỡ vướng chân vướng tay.”
“Ngài Lustucru thật đáng mến khi đến bầu bạn với tôi!” Mẹ Michel lịch sự nói. “ Tối nay ông có khỏe không?”
“Tôi thì khỏe nhưng có người lại không được thế. Ví như người gác cổng của chúng ta, ông ấy đang trong tình trạng khó mà chịu nổi; bệnh thấp khớp đang hành hạ ông ấy, và rất mong được bà đến thăm. Những lời dịu dàng của bà có thể an ủi tinh thần người bệnh, và là liều thuốc tuyệt vời chữa lành cơn đau. Đi nào, đi thăm ông bạn Krautman của chúng ta một chút; tôi bảo đảm rằng có bà ở đó ông ấy sẽ tốt hơn.”
Mẹ Michel đứng dậy ngay lập tức và đi xuống phòng của người gác cửa đang chịu đựng cơn đau khớp dữ dội.
“Bây giờ, chỉ còn chúng ta thôi!” Cha Lustucru kêu lên.
Ông ta âm thầm bước đến phòng khách nhỏ, bước đi bằng nhón chân, tay có mang theo cái giỏ nan có nắp đậy mà trước đó ông ta giấu dưới đáy tủ. Ông ta đến gần Moumouth rồi tóm lấy cổ chú một cách thô bạo. Con vật bất hạnh giật nảy mình, nhận thấy bản thân đang treo lơ lửng mặt đối mặt với cha Lustucru, kẻ thù của nó. Trong cảnh kinh hoàng đó, đáng lẽ chú phải kêu khóc lên, vật lộn phản kháng, gọi người đến giúp nhưng chú không còn thời gian. Tên quản gia khủng khiếp dúi thẳng chú mèo tội nghiệp vào giỏ, dập lại nắp đậy rồi chạy hộc về phía cầu thang, mắt hốc hác còn đầu tóc dựng ngược hết cả lên chẳng khác gì một tên tội phạm.
Đêm đó là một đêm tháng hai đẹp trời, trời trong và không khí lạnh khô. Mặt trăng chiếu sáng bừng; nhưng cách một chốc, những đám mây trôi lại tới che lấp mất vầng trăng và đất trời tối sầm lại. Cha Lustucru phải băng qua khu vườn để có thể thoát ra ngoài bằng một cánh cửa nhỏ mà ông ta sẵn có chìa khóa. Ông ta lướt đi từ bụi cây này sang bụi cây khác, cẩn thận tránh những lối đi, trừ khi những đám mây che khuất đi mặt trăng. Ông ta vừa mới mở cửa được một nửa thì chợt nghe bên ngoài có tiếng bước chân và tiếng nói chuyện. Ông ta quay người ngược lại đứng im và nghe ngóng.
“Mình ngu quá!” ông ta lẩm bẩm sau một quãng thời gian âm thầm quan sát. “Quên mất, hôm nay là đêm hội hóa trang; mấy người ngoài kia đang đi hội.”
Đúng vậy, quả thực đó chỉ là ban nhạc hóa trang từ Cung điện hoàng gia. Lustucru đợi cho đến khi họ đi khuất rồi mới đi nhanh ra ngoài. Khi ông ta đến bến tàu, Lustucru bắt đầu huýt sáo và nhún nhảy trong niềm vui của kẻ chiến thắng; dáng điệu của ông ta chẳng khác gì man điệu của kẻ ăn thịt người vòng quanh nạn nhân của hắn.
Ông ta đi ngược dòng sông Seine lên đến cây cầu Nhà thờ Đức bà, ngay tại giữa cây cầu, ông ta giương cái giỏ ra ngoài lan can rồi đột ngột dốc ngược cái giỏ và Moumouth tội nghiệp rơi thẳng vào trong dòng nước băng giá của con sông. Chú mèo rơi tự do kêu lên nghe thảm thiết như tiếng của người, khiến tên sát thủ rùng mình, nhưng cảm giác đó mình của hắn không tồn tại lâu. Hắn thọc tay vào túi và chế giễu đầy cay nghiệt,----
“Chuyến đi thoải mái nhé, Moumouth yêu quý; gắng đi để còn cập bờ bình an! Mà, nhân tiên,” hắn ta thêm, “Tao không nghĩ là mèo biết bơi đâu; kẻ cướp có cách của kẻ cướp. Bah! Từ cầu Nhà thờ Đức Bà đến Saint-Thomas-du-Louvre là khá xa đấy!”
Nhìn thấy tình cảnh đã được bảo đảm, Lustucru trở về nhà vẫn theo lối cũ đi qua cánh cửa nhỏ của khu vườn , rồi cẩn trọng leo vào phòng mình, và sẵn sàng tận hưởng nỗi lo lắng muộn phiền của Mẹ Michel.
Mẹ Michel bị níu chân bởi ông gác cửa, mãi bà mới thoát ra để về cho mèo của bà uống sữa với đường, loại thức uống vương giả mà bà phải hầu nó mỗi đêm.
Mẹ Michel khoan thai bước về phòng khách mà không hề lường được rằng thảm họa đang chờ đón bà. Không tìm thấy Moumouth ở chỗ lúc trước khi bà rời phòng, Mẹ Michel chỉ nghĩ là chú đang trốn đâu đó sau đệm ghế sô pha. Bà nhìn xuống dưới gầm sô pha rồi tìm loanh quanh chỗ mấy món đồ nội thất khác. Sau đó, bà chạy ra chỗ cầu thang, và gọi lớn: “Moumouth! Moumouth!”
“Nó không trả lời mình,” bà lo lắng. “Nhưng khi mình xuống tầng thì Lustucru đã ở đó; có lẽ ông ấy biết con mèo ở đâu.”
Bà gấp gáp gõ cửa phòng quản gia, kẻ đang giả vờ như vừa bị đánh thức khỏi giấc ngủ sâu, và bằng chất giọng cáu kỉnh ông ta hỏi bà muốn gì.
“Moumouth có ở với ông không?”
“Mèo của bà có bao giờ đến gần tôi đâu? Bà biết nó không ưa gì tôi mà.”
“Chúa tôi! Nó đâu rồi? Tôi để nó ở phòng khách mà, chỗ gần lò sưởi, và giờ tôi không thấy nó ở đâu hết.”
“Hay là nó đi lạc?” Cha Lustucru gợi, vờ như lo lắng lắm.
“Đi lạc ư! Không thể nào! Như thế thật vô lý! Nó chỉ ở đâu đó trong nhà thôi.”
“Nó phải được tìm thấy,” tên người xấu xa nghiêm túc nói. “Nó phải được tìm kiếm ngay. Moumouth là một con vật quý giá, nó có ý nghĩa to lớn đủ để đánh thức tất cả người hầu để tìm nó.”
Bấy giờ, tất cả gia nhân trong nhà đều thức dậy, tay cầm giá nến. Họ sùng lục mọi ngóc ngách, từ dưới hầm lên trên gác xép, từ trong nhà kính ra ngoài vườn. Lustucru sốt sắng chỉ đạo hoạt động tìm kiếm. Sau những cuộc tìm kiếm không kết quả, mẹ Michel kiệt sức vì xúc động và vì quá mệt mỏi. Bà ngã mình vào một chiếc ghế bành, bất lực.
“Chúa ơi!” Bà thều thào, “Con chỉ mới rời nó có một chút, và đó cũng là vì mục đích tốt.”
“Tôi bắt đầu nghĩ rằng mèo của bà đã thực sự mất rồi,” Lustucru đáp lại, giọng nghiêm trọng. “Quả là không may cho bà! Madame de la Grenouillère sẽ nói gì khi người trở về? Bà ấy có thể tống bà ra khỏi cửa!”
“Tống ra khỏi cửa!” Mẹ Michel hét lên thất thanh, kéo người ra hết cỡ. Rồi bà gục ngã, mặt tái mét, mắt nhắm chặt, bất tỉnh.
Cha Lustucru nhìn bà, mắt ráo hoảnh không hề cảm thấy chút day dứt nào. Ông ta phá lên cười, thật bỉ ổi!
Chương 4.
Gặp nạn nhưng tâm không loạn, chú mèo thông minh vượt lên hoạn cảnh
Chúng ta mất dấu Moumouth từ đoạn cầu Notre Dame, bị quẳng từ lan can xuống, chú thấy mình đứng chới với giữa lòng sông lạnh.
May cho chú, thanh xà chỗ trục cầu chính có thừa ra một khoảng lớn vừa với một thân mèo. Từ đó, chú nhìn ra khắp xung quanh. Dòng sông Seine hiện lên mênh mông như một đại dương, và nhỏ bé như Moumouth thì không tài nào mà qua được; thay vì cố gắng bơi đến bờ sông dường như đang lùi xa trước mắt mình, chú ngồi yên tại chỗ trước những nguy cơ chết vì lạnh hay vì đói hoặc bị những con sóng vọt lên cuốn phăng đi. Chú kêu lên vì căng thẳng, nhưng rất nhanh sau đó, tin rằng , mọi chuyện đã hoàn toàn vô vọng, Moumouth cho rằng không cần phải phí sức kêu gào, chú thản nhiên đợi chờ cái chết và chấp nhận tình cảnh nghèo ngặt này, đúng như với bản tính ung dung vốn có của chú.
Năm giờ sáng hôm sau, có hai người đàn ông đến từ đảo Saint-Louis, cả hai đều là tay câu cá nghiệp dư khéo léo hẹn nhau câu cá ở đỉnh cầu Notre Dame.
“Bác Guignolet, bác đến sớm quá,” người đến sau nói; “Chà, có vẻ chúng ta đều cùng chung ý tưởng.”
“Và đều làm tốt công việc này nữa chứ, bác Groquemouche; Đêm qua nước dâng, và rất nhiều cá từ thượng nguồn sông Seine đổ xuống, phải hậu đậu bậc nhất thì mới không câu được con nào.”
“Cộng tác không, bác Guignolet? Hợp tác với tôi, rồi cuối buổi ta chia nhau chiến lợi phẩm và đi ăn tối,”
“Đồng ý!” bác M.Guignolet nói, hai người cầm cần câu bằng tay phải, bắt tay bằng tay trái để thể hiện hiệp ước đã thành.
Thấy hai sợi dây câu, trong lòng Moumouth nhen nhóm hy vọng. Ngay khi sợi dây câu nằm trong tầm với, chú liền nắm chặt lấy, người câu cá thấy đầu dây nằng nặng ngỡ như cá đã cắn câu, kêu lên, “Cắn câu rồi! Cắn câu rồi!” rồi vội vàng thu dây câu lại.
“Tôi câu được một món hời rồi,” M.Guignolet nói, hận không thể thỏa mãn mà xoa hai bàn tay lại với nhau.
“Có vẻ là một con cá chép lớn,” M.Groquemouche đáp lại, nhưng còn chưa dứt câu thì Moumouth đã nhảy qua lan can.
“Khốn kiếp!” Hai người câu cá kêu lên, cố đuổi theo con cá bốn chân vừa tự nhảy ra khỏi mặt nước một cách kỳ diệu. Nhưng Moumouth chạy nhanh hơn hẳn họ và hai người đàn ông dễ dàng bị cắt đuôi.
Khi đã an toàn, Moumouth dừng lại, lấy hơi rồi xem xét thật kỹ các ngôi nhà xung quanh, nhưng không nhìn thấy nhà mình ở đâu cả chú hiểu rằng khu vực này không phải khu phố nhà mình. Tuy nhiên, việc cấp bách hiện giờ là phải tìm được một nơi trú ẩn; chú mèo run lên vì lạnh và vì đã mệt lử vì chạy quá sức, hiện tại chú không thể ở ngoài đường mà không mắc phải chứng viêm phổi. Men theo ánh sáng, chú đi vào tầng hầm của một tiệm bánh ngọt, ẩn mình sau đống giỏ đựng bánh, rồi chú lặng thinh đi ngủ.
Cái đói làm chú thức giấc.
Moumouth sinh ra trong cảnh đói nghèo và bị bỏ rơi từ lúc còn thơ ấu; Chú lớn lên từ đường phố, buộc phải tự tìm cách sinh tồn, và được trường đời đầy khó khăn, khốc liệt rèn luyện. Vì thế Moumouth là một con mèo đầy kinh nghiệm trong nghệ thuật săn mồi, bắt chuột,- bộ môn nghệ thuật mà các con mèo xuất thân thượng lưu không thèm đếm xỉa đến.
Moumouth đặt mình trong trạng thái cảnh giác, và bất thình lình chộp lấy một con chuột chui ra khỏi tổ tìm ăn chút bột. Chú vồ lấy con chuột bằng một đường cong parabol hoàn hảo, và ghìm lấy mũi con chuột không cho nó kêu lên. Tài nghệ của chú mèo tuy được thể hiện với nhiều kĩ thuật trong im lặng, nhưng vẫn bị chú bé làm bánh bắt gặp. “Ối! Một chú mèo!” Cậu bé học việc kêu lên, tay vơ sẵn cái thìa xúc bánh.
Người thợ làm bánh hướng mắt về phía Moumouth, nhìn chú ngấu nghiến con chuột, rồi nói với cậu trai:
“Đừng làm hại nó; nó đang giúp ta đó.”
“Nhưng ta đâu biết nó chui ra từ đâu?’’
“Có gì quan trọng trong khi nó hữu dụng ở đây?” Người thợ làm bánh đáp lại, ông ta là một người thông minh. “Ăn, ăn đi anh bạn,” rồi ông ta tiếp tục, ngồi xuống cạnh Moumouth và vuốt ve chú; “Ăn càng nhiều chuột càng tốt, không hết được đâu.”
Chú mèo của chúng ta hưởng lợi từ sự cho phép của người thợ làm bánh, thoải mái đánh chén con mồi, khi đã xong xuôi chú muốn rời đi bắt đầu tìm về dinh thự của Madame de la Grenouillère; nhưng người thợ làm bánh đã bịt lại lối ra.
“Khoan đã nào!” Ông ta nói. “Ta muốn một con mèo tốt; Trời đã ban cho ta một con, và thật không thể tha thứ được nếu ta để nó trốn thoát. Này! Jacques, chặn lại mọi kẽ hở, nếu tên lang bạt này có ý trốn thoát thì hãy nhanh trí đánh nó bốn phát bằng cái chổi.”
Và như thế, từ đồng minh người chủ tiệm bánh trở thành tên bạo chúa; quả thực là lợi ích cá nhân mài mòn đi những bản chất tốt đẹp nhất. Chú mèo của chúng ta như tỏ tường mọi chuyện, chú không chút chần chừ nào mà nhảy lên vai của thằng bé học việc và lao nhanh ra đường.
Bên ngoài lại có nguy hiểm mới đang chực chờ chú. Giật mình bởi cái bóng vụt qua của chú mèo, con chó bull to lớn chặn ngay trước mặt Moumouth. Chú mèo những mong tránh đi cuộc đối đầu không cân sức với con chó, nhưng ánh mắt của nó vẫn luôn theo dõi chú, không lơi là bất kỳ một hành động nào nơi Moumouth. Chú tiến sang bên trái thì ánh mắt nó lừ sang bên phải, chú tiến sang bên phải thì ánh mắt hướng sang bên trái, kèm theo đó là tiếng gầm gừ đe dọa. Trong giây lát hai con vật đứng yên bất động, quan sát lẫn nhau, con chó bật ra bộ móng, nhe ra hàm răng, thân trên của nó kìm xuống dồn hết trọng lực vào phần thân sau, và chú mèo với đôi hàm mở rộng, lưng chú cong lên, đầu rướn ra phía trước.
Cả hai dường như đều không có ý định là người đầu tiên bắt đầu cuộc chiến. Nhưng rồi, con chó lao về phía địch thủ của nó, nhưng Moumouth đã né một cách điêu luyện, chú vượt lên từ bên dưới con chó chạy trốn theo hướng cầu tàu, con chó lập tức đuổi theo chú. Cả hai lao đi, vào giữa đám đông người đi bộ và lách qua những cỗ xe ngựa trên đường. Bị cuốn theo bản năng săn mồi, những con chó hoang bắt gặp cảnh này cũng gia nhập cùng con chó bull, mới đó mà đã có hơn ba mươi bảy con chó săn đuổi Moumouth.
“Ta cùng đường rồi.” chú tự nói với bản thân mình, “nhưng ít nhất ta sẽ không bán rẻ mạng mình.”
Moumouth quay lưng vào tường, cơ thể chú gồng lên ngạo nghễ; hàm răng nghiến chặt, lông tơ dựng đứng lên, chú mèo đối mặt với lũ chó săn với đôi mắt khủng khiếp đến nỗi lũ chó e sợ không dám nhìn thẳng như thể bọn chúng từng đứa một đang bị cô lập đơn độc một mình chứ không phải đang ỷ mạnh hiếp yếu một con mèo. Lợi dụng lúc lũ chó còn đang chần chừ, chú mèo đột nhiên nhảy lên trên gờ tường. Tuy chú vượt ra khỏi tầm với của lũ chó nhưng vẫn chưa an toàn hẳn. Lỡ như chú bước hụt, lỡ như chú kiệt sức ngay tại đây hay lỡ như bức tường ngay dưới chân chú sụp xuống thì hai mươi cái miệng đang ngoác rộng, đói khát bên dưới sẽ tước chú thành từng mảnh!
Trong lúc đó, mẹ Michel đã trải qua một đêm trong sầu muộn. Bà không thể kìm nổi nỗi đau thương trước sự biến mất của Moumouth; Bà liên tục đau đáu gọi tên chú mèo, lời than của bà những biến thành lời bài hát phổ biến bên tai của những người hàng xóm xung quanh: “Ai có thể mang mèo của tôi về đây?”
Sáng hôm sau, khi mặt trời rạng rỡ ló mặt, tên Lustucru xảo trá lại tìm đến mẹ Michel nói bóng nói gió:
“Vậy, bạn tốt của tôi, bà đã tìm được nó chưa?”
“Chúa ơi, vẫn chưa!” bà lẩm bẩm. “Ông có tin tức gì về nó không?”
“Vẫn không có gì khả quan hết,” người quản gia đáp lời, hòng tra tấn người đàn bà khốn khổ; “đêm qua tôi có mơ về Moumouth; nó xuất hiện trong giấc mơ của tôi với khuôn mặt nhợt nhạt, vẻ mỏi mệt, con mèo hình như không được ổn cho lắm.”
“Nó đang ở đâu vậy?”
“Nó có vẻ như đang ở trong vườn, ngay dưới bụi tử đinh hương.”
Mẹ Michel tức tốc chạy vào vườn, nhưng hiển nhiên như ta đã biết Moumouth không có ở đó.
Như vậy, suốt ngày hôm đó Lustucru tìm ra trò giải trí mới bằng cách khiến lòng mẹ Michel phấn khởi bởi hy vọng tìm về được Moumouth rồi lại rơi vào thất vọng ê hề.
“Mẹ Michel,” ông ta nói, “mới ngay đây, ở trong phòng kho tôi hình như nghe thấy tiếng mèo kêu.”
Mẹ Michel bước nhanh đến phía phòng kho.
Ông ta cũng đến góp vui:
“Chúng ta cuối cùng cũng tìm được Moumouth rồi! Tôi chắc chắn rằng bây giờ nó đang nghịch phá trong hầm.”
Và mẹ Michel bất chấp mạo hiểm chui vào từng ngóc ngách u ám của căn hầm, nơi bà không tìm thấy được bất cứ thứ gì ngoài lũ chuột.
Trong những ngày đó, Lustucru có xướng lên vài vần thơ, vần thơ lại trở thành câu vè đầy thích thú đối với chúng ta:
“Ôi, mẹ Michel
mèo bà không có mất
tận cùng nơi gác cao
có chuột nó săn tất
nó dùng tấc súng rơm
nó nhờ tấc kiếm gỗ.”
Không khó để nhận ra ý thọc gậy bánh xe đằng sau từng lời cạnh khóe cay đắng của cha Lustucru. Vờ như Moumouth săn chuột bằng cây súng rơm và cây kiếm gỗ là một điều gì đó khá khó để có thể xảy ra, vì chưa ai thấy một con mèo lại được trang bị như thế cả. Nhưng nỗi thống khổ của mẹ Michel che mờ lý trí của bà, bà chỉ còn chú ý đến bất cứ điều gì mang lại cho bà một tia hy vọng.
“Nó ở trên gác xép sao!” bà kêu lên, mà không hề để ý đến phần còn lại của bài thơ. “Chúng ta mau lên, ông Lustucru; đi tìm Moumouth. Cho tôi nhờ cánh tay của ông một chút, tôi giờ quá là nôn nao, bối rối, cơn mỏi mệt đang kìm lấy tôi và tôi chả còn sức để leo lên đó một mình nữa.”
Cả hai kéo nhau lên căn gác, mẹ Michel tay cầm đèn lồng, mò mẫm khắp nơi từ trên gác mái đến dưới mái nhà. Nơi thinh lặng và cô độc ngự trị.
“Ông lại nhầm nữa rồi,” mẹ Michel lầm bầm.
“Không, không,” người đàn ông ác ý trả lời; “Chúng ta cứ tìm tiếp, kiểu gì cũng thấy. Ta chưa tìm ra phía sau đống gỗ này.”
Mẹ Michel cả tin tiến đến chỗ được chỉ định, và trước sự kinh khiếp của lão Lustucru, con mèo đáng lẽ ra nên chết đuối nay xuất hiện, khỏe mạnh không sứt sẹo chút nào, nó hằm hằm nhìn ông ta ánh mắt đầy phẫn nộ.
“Là nó! Là nó!” Mẹ Mother la lên, ôm chầm lấy Moumouth vào lòng. “Ôi, ngài Lustucru thân mến! Người bạn tốt đẹp chân thành của tôi, phải cảm ơn thế nào cho đủ với sự chỉ dẫn của ngài đây!”
Người quản gia không còn tâm trí nào để mà tưởng thưởng lời khen ngợi, nhất là khi ông ta chả có chút công lao nào. Gương mặt tái xanh, đông cứng, ông ta gục đầu xuống trước nạn nhân của mình, chuyện con vật còn toàn mạng là điều ông ta không thể nào lý giải nổi. Nhưng thực ra, chuyện này rất đơn giản: Moumouth, sau khi bị săn đuổi bởi lũ chó đã thành công nhảy qua tường và đi qua máng nước này đến máng nước khác, chạy từ khoảnh vườn này đến khoảnh vườn kia, nhảy qua bao mái nhà, đến cùng chú cũng tìm về được mái nhà thân thương. Nhưng, e sợ sự hiện diện của kẻ thù, chú không dám xuất đầu lộ diện, thay vào đó chú giấu mình trên gác xép.
“Mình đang mơ thấy ác mộng ư?” Cha Lustucru tự hỏi. “Con mèo đáng ghét đang ở ngay trước mắt mình sao? Bằng xương bằng thịt? Hay là hồn nó quay về để tra tấn mình? Con mèo, con mèo hóa thành tinh rồi!”
Moumouth không phải mèo yêu, mà ngược lại là chúa trời đã bảo vệ nó.
Chương 5.
Cuộc đấu tranh thắng lợi của chú mèo chống lại kẻ thù Lustucru.
Những sự kiện chúng ta ghi lại đã chỉ rõ tình huống hiện tại của từng nhân vật. Trước nỗi sợ mất đi con mèo cưng cùng với món lợi mà bà hằng mong ước, mẹ Michel nâng mức cảnh giác và chú tâm vào Moumouth lên gấp đôi.
Moumouth, giờ hiểu rõ bản thân sẽ phải đối phó với những gì. Nếu có thể tránh thì chú sẽ tránh, còn trong tình huống bắt buộc phải chiến đấu chú sẽ chống lại tên quản gia bằng tất cả bộ vuốt nhọn hoắt và hàm răng sắc lẹm của mình .
Cuối cùng, với cha Lustucru, thất bại lần này là quá đủ tuy ông ta vẫn kiên trì với những toan tính ác độc của mình nhưng là trong sự tuyệt vọng. Ông ta mong con mèo chết đi, không chỉ vì ghen tỵ với mẹ Michel mà bởi vì chính ông ta cũng ghét cay ghét đắng con mèo.
“Ôi, thật nhục nhã làm sao!” ông ta tự nói với bản thân, cay đắng. “Ta phải biến đi, lui vào một sa mạc hay tự chôn mình trong lòng đất! Cái gì! Ta, Jérôme Lustucru, một người đàn ông trưởng thành, có thừa kiến thức và kinh nghiệm, một người đàn ông - ta dám nói rằng- một người đàn ông có tiếng thơm trong xã hội, ta lại bị đánh bại, bị chế giễu bởi một con mèo sống trong cống nước. Ta quăng nó xuống đáy sông, rồi lại tìm thấy nó trên gác nhà! Ước mong của ta là tách nó ra khỏi người bảo vệ nó, nhưng cuối cùng ta lại cầu nối để hai người họ gặp lại! Chính ta dẫn mẹ Michel lên căn gác để hành hạ bà ta ấy vậy mà tại nơi đó ta chứng kiến cảnh bà ta vỡ òa trong hạnh phúc! Con mèo mà ta tin rằng đã chết nay xuất hiện thách thức ta! ...Nó không thể như thế được lâu đâu!”
Và cha Lustucru, cứ như thế đắm chìm trong trong tâm trí của chính ông ta.
Ngày hôm đó Moumouth vẫn chưa có gì vào bụng, và chú tỏ rõ cơn đói của mình bằng cách meo meo liên tục. Lúc đó, mẹ Michel nói chuyện trấn an chú như thể chú hiểu những gì bà nói,
“Yên nào, thưa ngài; Sắp xong rồi đây.”
Bà đi xuống phòng chung, nơi khiến bà thường xuyên bận rộn sau khi Madame de la Grenouillère vắng nhà, và chú mèo người bạn đồng hành của bà, rõ ràng phật ý khi thấy bà đi về hướng phòng ngủ của Lustucru. Tuy nhiên, chú đi vào trong phòng với bà, tự nhủ với bản thân rằng có sự hiện diện của người bạn chân thành mẹ Michel thì tên quản gia sẽ không dám động tay động chân gì với chú.
Lúc bà gõ cửa, cha Lustucru đang lấy ra từ giá sách một bọc đồ màu xanh với dòng chữ “Thuốc chuột” trên nhãn.
“Chính là thứ này.” ông ta lẩm bẩm một mình, tay nhét bọc đồ vào trong áo vét. “Thuốc chuột trị được chuột thì cũng trị được mèo. Mèo Moumouth yêu quý của chúng ta sẽ có cơ hội để thử…. Tôi có thể giúp gì được, thưa mẹ Michel?”
“Đã 5 giờ chiều rồi, ngài Lustucru, và ngài vẫn chưa chuẩn bị bữa tối cho Moumouth .”
“Tôi quên mất Moumouth ư!” tên quản gia kêu lên, hai tay nắm lại đặt trên ngực như chịu phải chịu đả kích gì lớn lắm, “Tôi vừa mới nhớ đến chú đây… tôi sẽ phục vụ cho mèo con món khoai tây nghiền thịt ngon đến mức chú không còn muốn món gì khác.”
“Cảm ơn, ngài Lustucru! Tôi sẽ báo cho phu nhân, ngài nữ bá tước sự tận tụy của ông. Tôi nhận thư của bà ấy mỗi ngày, tuy ngắn gọn nhưng phu nhân mong rằng Moumouth vẫn khỏe mạnh, và bà ấy đã chuẩn bị một phần thưởng thật hậu hĩnh cho tôi. Ông chắc chắn là hiểu được niềm vui của tôi, ngài Lustucru! Chồng của em gái tôi qua đời để lại một bà góa phụ và bốn đứa trẻ, vì bọn trẻ mà tôi chẳng dư dả ra bao nhiêu. Từ đó đến bây giờ, tiền lương của tôi luôn không đủ để trang trải; nhưng nhờ có phần thưởng này, lũ cháu tội nghiệp của tôi sẽ có cơ hội đến trường học.”
Bộc bạch những lời đó, vành mắt mẹ Michel ươn ướt nhưng sáng lên niềm vui ngọt ngào của một người vừa làm một nghĩa cử tốt đẹp cho cuộc đời. Tên quản gia, ngược lại không bị ảnh hưởng gì mấy. Ông ta để cho cái ác bên trong mình lộng hành, và bây giờ nó đã hoàn toàn điều khiển được ông ta, đàn áp sự lương thiện bên trong tâm hồn, nó lan tràn như loài cỏ dại đâm bật gốc ruộng lúa mì.
Moumouth hiểu rõ bản tính của người đàn ông, chú không muốn bà ngồi lâu. Chú đến bên người mẹ Michel, nhìn bà cầu khẩn, kéo váy bà như thể muốn nói:
“Đi thôi, đi thôi!”
“Ngoan nào!” bà nói với chú, “mày kéo rách váy ta mất.”
Nhưng Moumouth không buông.
“Sao vậy? mày muốn đi ra sao?” mẹ Michel hỏi.
Moumouth nhảy vòng quanh như muốn khẳng định lời bà.
“Được thôi,” bà đáp, “con mèo này chẳng có thể hạnh phúc ở bất cứ đâu ngoại trừ trong phòng khách .”
Bà đứng dậy và lui ra khỏi phòng với Moumouth vui vẻ lon ton ở phía trước.
Mười lăm phút sau, món khoai tây nghiền ức gà ngon miệng đã sẵn sàng ăn kèm với bánh mì thượng hạng cùng với lượng nguyên liệu bí mật vừa ăn. Với một lượng lớn thuốc chuột đã được bỏ vào đĩa đồ ăn, ông ta nhanh chóng bước vào phòng ăn:
“Đồ ăn của ngài đây!!”
Nhìn ngắm đĩa đồ ăn, Moumouth run lên phấn khích vì thực sự, chính bản thân chú cũng là một con mèo tham lam. Nó vươn cái mũi lên đĩa đồ ăn, nhưng bất ngờ chú giật bắn về sau, gập lại thân người. Một mùi kinh tởm lan vào khoang mũi của chú. Moumouth đi vòng quanh cái đĩa, ngửi thử một lần nữa, rồi lại lùi về sau. Chú mèo này đã nhạy bén ngửi ra mùi thuốc độc.
“Thật kỳ lạ,” mẹ Michel nói; cố gắng đẩy đĩa thức ăn lại gần chú mèo nhưng không thành công, bà tìm Lustucru để nói cho ông ta chuyện lạ vừa xảy ra.
Tên quản gia-kẻ hạ độc nén giận lắng nghe.
“Cái gì!” ông ta nói, “nó không ăn? Có lẽ nó không đói cũng nên.”
“Tôi nghĩ là, ngài Lustucru; vì món ăn ngài làm thực hấp dẫn nên tôi sẽ thử nó sẵn tiện làm gương cho Moumouth.” Lúc này, cha Lustucru dẫu có cứng rắn đến mấy cũng không khỏi run lên. Trong một phút hoảng hồn ông ta nhanh chóng kêu lên:
“Đừng ăn nó, tôi cầu xin bà!”
“Tại sao không? Đồ ăn có vấn đề gì sao?”
“Không, đương nhiên không sao rồi,” Cha Lustucru khó khăn trả lời; “Nhưng đồ ăn cho mèo không thể phục vụ cho một tín đồ Cơ Đốc giáo. Đó là trái với luân thường đạo lý, và không tương xứng với phẩm giá của con người.”
Mẹ Michel đồng ý với lý do này, bà đáp lại nhẹ nhàng:
“Được thôi; thế cứ tùy ý nó vậy! Tôi cũng không thể làm hài lòng nổi chú mèo sớm nắng chiều mưa này, hôm nay nó sẽ không được phục vụ gì nữa hết.”
Đến ngày hôm sau đĩa đồ ăn vẫn chưa được đụng đến.
Tên quản gia mong rằng cơn đói có thể ép Moumouth ăn đĩa đồ ăn có độc đó; nhưng chú mèo đã quen với việc nhẫn nhịn. Chú làm quen với cơn đói, sống qua ngày bằng đồ ăn thừa và vụn bánh mì, nó tránh đi khiếp sợ mỗi khi mẹ Michel mang đồ ăn đến cho nó. Đĩa đồ ăn của chú nằm đó, ngay góc tủ trong phòng chờ, bị lãng quên và không bao giờ vơi đi.
Thấy rằng mưu kế của mình đổ sông đổ bể, cha Lustucru rất tức tối. Ham muốn trừ khử con mèo này trở thành lý tưởng cố định mạnh mẽ trong đầu ông ta, nó là đam mê, là chấp niệm. Ông ta mơ về nó cả ngày lẫn đêm. Mỗi bức thư của Madame de la Grenouillère gửi về đều nhắc tới con mèo và hứa hẹn về phần tiền thưởng của mẹ Michel, ngày qua đi ngọn lửa ghen tỵ mù quáng trong ông ta càng cháy càng vượng. Ông ta suy tính ra những thủ đoạn tàn nhẫn nhất hòng hãm hại được con mèo mà không lộ ra bất kỳ sơ hở nào, nhưng toàn bộ đều không đủ độ an toàn và hiệu quả. Cuối cùng, ông ta chọn ra một cách.
Trên một bệ cao, trong phòng riêng của mẹ Michel có đặt một bức tượng vua Louis XIV đội mũ chiến binh La Mã, tóc xoăn peruke được bện cùng với lá nguyệt quế. Phía sau bức tượng có một ô cửa sổ tròn nhìn ra cầu thang, còn ngay phía dưới chân cái bệ là cái gối lông ngỗng mềm mại nơi được coi là giường ngủ của Moumouth. Chỉ cần đẩy ngã bức tượng là con mèo sẽ bị đè chết.
Đêm đó Lustucru không tiếng động rời phòng, ông ta bí mật lẻn vào phòng ngủ của mẹ Michel để mở ô cửa sổ cửa tròn, nhưng ông ta đủ thông minh không mở toang ra mà chỉ khép hờ. Đến nửa đêm, khi mọi người đã đi ngủ hết, Lustucru mới cầm theo một cây chổi dài hay còn được gọi là chổi đầu sói đi đến chỗ cầu thang cạnh cái cửa sổ. Và chỉ với một cái đẩy nhẹ, bức tượng rơi thẳng xuống tấm đệm phát ra tiếng vang lớn.
Mọi chuyện diễn ra đúng như dự liệu; đó chính là dấu hiệu cho thắng lợi của ông ta và là cái chết của con mèo. Tuy nhiên, khi ông ta nghe thấy tiếng bức tượng lăn trên nền nhà, ngay lập tức người ông ta lạnh toát, chân bước chập choạng trốn về phòng. Mẹ Michel giật mình tỉnh dậy, trong phòng tối đen, còn bà không tài nào tìm lấy một nguồn sáng vì thời đó diêm còn chưa được phát minh. Bất ngờ đi cùng với hoảng loạn khiến bà cứng người trong giây lát rồi bất giác bà hét lên bằng tất cả sức lực “Có trộm!” Ngay lắp tự, cả ngôi nhà bừng tỉnh, mọi người chạy nhanh đến xem có chuyện gì đã xảy ra.
Lustucru xuất hiện sau cùng, trên đầu còn đội mũ ngủ bằng vải bông người quấn áo choàng ngủ.
“Có chuyện gì vậy?”
“Bức tượng vua Louis trong phòng tôi đổ xuống” mẹ Michel trả lời.
“Trời đất!” cha Lustucru giả vờ như bất ngờ lắm. “Nhưng nếu đã vậy, không phải bức tượng sẽ đè lên người Moumouth sao.”
Chưa dứt lời đã thấy Moumouth chui ra từ dưới giường, chạy về phía mẹ Michel như thể tìm kiếm sự giúp đỡ và bảo vệ từ bà. Cha Lustucru sững người.
Giấc ngủ của mèo không sâu, Moumouth cũng như vậy, chú ngủ chỉ với một con mắt và tiếng sột soạt của tên quản gia sau ô cửa sổ tròn đã khiến cậu tỉnh giấc. Giống như mọi loài động vật, tò mò là bản tính của chú. Và như vậy Moumouth đã rời ổ để tìm hiểu xem nguyên nhân gây ra tiếng động lạ ấy. Chú đi ra giữa phòng, nơi có thể nhìn bao quát ra chỗ cửa sổ và chú thấy một chuyện hết sức vô lý, có một cây chổi đầu sói chui ra từ ô cửa sổ. Tiếp đó, tiếng bức tượng va vào tấm đệm khiến chú giật nảy mình, trốn ngay xuống góc tường.
Bấy giờ,mọi người mang đến cho mẹ Michel một cốc nước đường hoa cam, họ cũng nâng bức tượng vua Louis đã vỡ mất mũi, cằm và cả một lớp tóc peruke lên. Khi mọi việc đã xong xuôi họ trở lại giường.
“Nó lại thoát được.” Cha Lustucru tự độc thoại. “Nó luôn luôn thoát được! Ta sẽ không kịp giết nó trước khi nữ bá tước trở về mất! Mẹ Michel sẽ lĩnh được phần thưởng một ngàn rưỡi đồng livre, và ta vẫn sẽ như trước chả là cái gì cả. con mèo xấc xược đó đề phòng ta, mọi mưu kế của ta đều thất bại”...Ông ta quyết định sẽ tìm thêm một tòng phạm để giúp mình.
Chương 6.
Cha Lustucru tiết lộ kế hoạch của mình cho Nicolas Faribole
Cha Lustucru muốn tìm kiếm một đồng minh. Đầu tiên ông ta định chọn người ngay trong đám người hầu ở trong nhà, nhưng ông ta lại thấy rằng hầu hết gia nhân trong nhà đều yêu quý mẹ Michel, và có khả năng sẽ phản bội ông ta, rồi ông ta sẽ bị đuổi ra khỏi dinh thự trong nhục nhã. Nhất là khi, tòa dinh thự này đem lại cho ông rất nhiều lợi lộc. Tuy vậy, ông ta thực sự cần một phụ tá. Nhưng người phụ tá này nên ở tầng lớp nào? Độ tuổi bao nhiêu? Trai hay gái? Ông ta nên tuyển chọn từ phương diện nào đây?
Phiền não vì chuyện suy tính, Lustucru rời giường từ lúc sáu giờ rưỡi, định bụng bước ra bến tàu hóng gió. Khi ông ta bước xuống bậc thềm, ông ta chú ý ở phía bên kia đường có một người phụ nữ cao lớn, thân hình queo quắt đầy góc cạnh, bà ta vận một bộ quần áo diêm dúa rẻ tiền. Người phụ nữ có một đôi mắt trũng sâu, da dẻ màu đồng, cái mũi khoằm như loài chim săn mồi, và khuôn mặt nhăn nheo như một trái táo đã chín rụng. Bà ta đang nói chuyện với một cậu bé khoảng mười ba hay mười lăm tuổi, quần áo của cậu ta thực tàn tạ, nhưng gương mặt cậu lại ánh lên vẻ thông minh sắc sảo.
Cha Lustucru thấy người phụ nữ già có vẻ quen nhưng ông ta không thể nhớ bản thân đã gặp bà ta ở đâu. Nếu đầu óc ông ta được thảnh thơi hơn, ông ta sẽ cố lục lọi trí nhớ của mình về người phụ nữ, nhưng con mèo đã choán hết thời gian của ông ta, và ông ta tiếp tục cước bộ với vẻ trầm ngâm. Đầu ông ta gục về trước, hai tay vòng lại ở trước ngực, đôi mắt cụp xuống nhìn mặt đường như thể tòng phạm của ông ta có thể trồi lên từ dưới đất.
Cứ như vậy, ông ta lang thang được một lúc. Làn gió buổi sáng mai cũng không thể làm vơi đi ý định độc ác đang sôi sùng sục bởi tham vọng xấu xa của ông ta. Ngay cả cảnh trời trong xanh hay tiếng chim hót dọc bên sông cũng không thể gợi lên trong ông ta một chút điềm đạm hay ngọt ngào nào như cách mà nó tác dụng lên những người chân thành.
Lúc ông ta trở về, người phụ nữ già không còn ở đó nữa, nhưng cậu trai thì vẫn còn. Cậu ta đang ngồi trên cột đá, mặt hướng lên trời, tập trung nhìn vào dinh thự của Madame de la Grenouillère. Lustucru bắt chuyện với cậu ta:
“Cậu đang làm gì ở đây vậy, anh bạn trẻ?”
“Tôi ư? Không làm gì hết. Tôi chỉ ngắm tòa dinh thự này thôi.”
“Tôi cũng tin là như thế, nhưng cậu làm vậy để làm gì?”
“Vì tôi thấy nó đẹp, và tôi muốn được sống ở trong đó một lần, người ta sẽ hạnh phúc nếu được sống trong một ngôi nhà như vậy.”
“Quả thực vậy,” Người quản gia trả lời, có vẻ đồng cảm; “Mỗi ngày của những người sống trong đó đều trôi qua trong hạnh phúc. Người phụ nữ mà cậu nói chuyện lúc nãy là ai vậy?”
“Đó là bà Bradamor.”
“Madame Bradamor, bà đồng nổi tiếng sống ở phía cuối đường đó hả?”
“Đúng vậy.”
“Cậu biết bà ta?”
“Một chút, tôi thỉnh thoảng làm mấy việc lặt vặt cho bà ta.”
“À..À!...Vậy lúc nãy bà ta giao việc gì cho cậu vậy?”
“Bà ta nói rằng nếu tôi được làm việc trong ngôi nhà này thì cuộc sống của tôi sẽ trở nên dễ chịu hơn nhiều.”
“Madame de la Grenouillère đang vắng nhà, anh bạn nhỏ của tôi, bên cạnh đó nhà này đã đủ gia nhân rồi.”
“Tiếc thật,” câu trai đáp, thở dài thườn thượt.
Cha Lustucru bước lên mấy bước giả như sắp sửa trở vào tòa nhà, ông ta dặt tay lên tay năm cửa, rồi đột nhiên quay người lại và đi về phía cậu trai.
“Tên cậu là gì?”
“Nicolas Langlumé, giống như tên của bố tôi, nhưng mọi người thường gọi tôi bằng cái tên Faribole.
“Cậu đang làm việc gì?”
“Không gì hết, cha tôi làm việc chỗ bến tàu, còn tôi, tôi sống tạm bợ ngày qua ngày cố gắng có bánh mỳ để ăn. Tôi chạy việc vặt, bán bọ vòi rồng, chim hét đen, và chim sẻ, nhặt đinh trong rãnh nước rồi bán chúng, mở cửa xe ngựa, câu cá ở sông Sein, hát trên phố, thắp đèn, đôi khi tôi đóng kịch câm ở nhà hát Nicolet. Cũng không nhiều lắm, tôi có thể làm tất cả để có miếng ăn.”
“Cậu thú vị đấy,” cha Lustucru đáp, “Tôi ước gì tôi có thể giúp cậu. Nói cho tôi biết, cậu nấu ăn được không?”
“Tất nhiên! Tôi thích ăn ngon, nhưng điều kiện không cho phép tôi được ăn nhiều”
“Tôi không có hỏi cậu có thích ăn không, đồ ngốc! Tôi hỏi cái lưỡi cậu có tuyệt không, cậu có thiên phú nấu ăn không.”
“Tôi không biết nữa. Tôi chưa thử bao giờ.”
“ Vậy, thế này, Faribole, tôi sẽ dạy cho cậu. Đến đây, đi theo tôi. Tôi sẽ thay đồ cho cậu rồi sẽ tự mình dạy dỗ cậu thành một gia nhân, trong thời gian Madame de la Grenouillère đi vắng. Bà ấy là một quý bà tốt bụng, bà sẽ không nghi ngờ gì mà thu nhận cậu; nhưng nếu bà ấy không chịu thì cậu vẫn có vốn để thể hiện ở nơi khác.”
“Ông là gia nhân của nữ bá tước sao?”
“Tôi là quản gia của bà ấy,” cha Lustucru nói, vẻ trịnh trọng.
Mắt của Faribole sáng lên hạnh phúc, cậu cúi người tôn kính người quản gia, và nói với giọng cảm động.
“Ôi, Con nợ ông biết bao!”
Faribole được xếp vào làm việc ngay trong ngày hôm đó và được các gia nhân trong nhà chào đón. Cậu là một cậu bé tốt bụng, được việc và nhanh nhẹn, mặc dù vẫn có chút bỡ ngỡ bởi bộ đồng phục mới và công việc mới, nhưng cậu vẫn thể hiện thái độ làm việc mẫn cán của mình.
“Faribole,” tên quản giả nói với cậu bé học việc của mình nhiều ngày sau đó, “Đến lúc để nói cho cậu luật lệ ở đây rồi. Có một cá nhân ở đây, có đủ quyền lực, luôn luôn khó đoán và đứng ở vị trí tối cao, mà cậu cần phải phục tùng, và người đó là một con mèo. Nếu cậu muốn thăng tiến ở đây thì cậu phải làm hài lòng Moumouth. Nếu con mèo thích cậu thì cậu cũng sẽ được Madame de la Grenouillère và bà hầu riêng của phu nhân yêu thích, mẹ Michel.”
“Chú mèo sẽ là bạn của con, và con sẽ làm bạn với chú mèo,” Cậu trai tự tin đáp lời.
Quả thực là vậy cậu đối Moumouth với rất tốt, cậu vô tư mà cẩn thận chăm sóc chú mèo. Mặc cho bản tính của mèo là nghi ngại nhưng chú vẫn thể hiện sự gắn bó của mình với Faribole, chú thoải mái đi theo cậu ta, trêu đùa cậu, và muốn cậu chơi với mình. Mẹ Michel gần như ghen tỵ với cậu. Cha Lustucru kẻ có âm mưu riêng, ông ta nhìn cảnh đó cười bất thiện, xoa xoa hai bàn tay với nhau.
Tên quản gia trong một tối nọ, yêu cầu Faribole đến phòng ngủ của mình. Sau khi đã đóng cửa kỹ càng và tự trấn an bản thân rằng không ai nghe được hết, ông ta bắt đầu:
“Moumouth bây giờ là bạn của cậu, cậu đã làm rất tốt.”
“Con sẽ được giữ lại làm ở đây, có đúng không?”
“Cũng có thể. Cậu thấy thích ở đây chứ?”
“Không nghi ngờ gì! Con, người sống bằng bánh mỳ đen, có thể làm bốn bữa ngon một ngày. Con đã từng mặc chiếc áo nhăn nhúm, rách rưới và quần tây vá, còn bây giờ con ăn vận như một hoàng tử. Con không còn phải chịu cái lạnh hay phải nằm ngủ nơi màn trời chiếu đất, con giờ được ngủ trên giường nơi con có thể mơ về bánh quy gừng và bánh trái cây.”
Cha Lustucru chống cằm, mắt sắc lẹm nhìn Faribole, ông ta nói:
“Giả sử như cậu phải quay trở về với cuộc sống lang bạt trước khi được ta nâng đỡ.”
“Vậy, con tin rằng con sẽ chết vì nhục nhã!”
“Thế, cậu sẽ làm mọi bất kỳ điều gì để có thể bảo toàn vị trí hiện tại?”
“Con sẽ làm bất kỳ điều gì.”
“Bất kỳ điều gì sao?”
“Tất nhiên, bất kỳ điều gì.”
“Rất tốt. Bây giờ, ta yêu cầu cậu làm việc này: Moumouth thoải mái ở bên cậu; Ngày mai, ngay khi đêm xuống, cậu dẫn nó ra vườn; cậu sẽ bắt nó bỏ vào trong cái bị ta chuẩn bị sẵn, và buộc chặt miệng bị”
“Rồi sau đó?” Faribole nói, mắt mở lớn.
“Ta với cậu mỗi người cầm một cây gậy, đánh nó cho đến chết.”
“Không bao giờ! Không bao giờ!” Cậu bé tội nghiệp đứng bật dậy kêu lên.
“Thế thì thu dọn đồ rồi cuốn gói đi. Ta đuổi anh ra khỏi đây!”
“Ông đuổi con ư!” Faribole lặp lại, vươn hai tay lên trời.
“Ta không có thời gian cho anh chuẩn bị đâu, anh phụ thuộc vào ta, chỉ vào ta.”
Faribole bắt đầu khóc, còn tên quản gia bồi thêm giọng cay nghiệt:
“Đi ngay! Không làm mình làm mẩy! Cởi đồ ra mặc lại bộ quần áo rách nát của anh rồi biến đi!”
Sau khi nói xong, Lustucru lấy ra từ trong tủ bộ quần áo cũ của Faribole. Tên quản gia khinh khỉnh cầm bộ quần áo giữa ngón cái và ngón trỏ, rồi ném chúng xuống sàn.
Cậu trai tuyệt vọng nhìn vào bộ quần áo cậu đang mặc, so sánh nó với mớ giẻ rách cậu bắt buộc phải mang trở lại. Nhìn thôi là đủ biết cái nào hơn cái nào, cậu trai bật lên khóc nức nở.
Tuy nhiên, cậu quyết định không chọn lấy bộ đồ tươm tất với cái giá phải trả là chính bản thân cậu trở thành kẻ bội bạc và tên giết người. Cậu trai dứt khoát cởi đi áo vét trên người, rồi đến cái khăn quàng cổ của cậu. Nhưng ý nghĩ phải bỏ đi đôi giày mới và trở lại đi bằng đôi chân trần trên những vệ đường đầy đá vụn và mảnh thủy tinh khiến Faribole khốn khổ khựng lại lưỡng lự.
Cha Lustucru quan sát cậu trai kỹ càng, lòng mừng thầm bởi thái độ của Faribole và bởi mánh khóe hoàn hảo của mình.
“Đồ ngu ngốc!” ông ta nói; “Anh từ bỏ hạnh phúc trong khi có thể dễ dàng đạt được nó. Nếu mệnh lệnh của ta là giết một người, thì ta có thể hiểu, thậm chí còn đồng tình với sự day dứt của anh. Nhưng yêu cầu của ta là giết một con mèo -chỉ một con mèo. Anh thấy việc này tồi tệ ở chỗ nào? Một con mèo? Chả là cái gì hết; Không ai quý trọng sinh mạng của một con vật. Chủ quán trọ còn nấu thịt mèo cho khách trọ ăn. Những bác sĩ phẫu thuật lành nghề giết mèo để làm thí nghiệm. Mèo, không ai để tâm đến chúng nó, khi một ổ mèo có sáu bảy con mới sinh, chỉ một được giữ lại, còn lại đều vứt hết xuống sông.”
“Nhưng Moumouth lớn rồi, Moumouth là một con mèo đã trưởng thành,” Faribole nói giọng buồn khổ; “và còn nữa, ngài không hiểu, con yêu quý nó.”
“Anh yêu quý con thú vật đó! Anh dám yêu nó!” Tên quản gia hét lên, khó kìm nén cơn phẫn nộ. “Tốt lắm! Ta—ta ghét con mèo đó, và ta ước nó đi chết đi!”
“Nhưng Moumouth đã làm gì ngài?”
“Liên quan gì đến anh? Ta muốn nó chết, thế thôi.”
“Ngài thương xót cho chú với!” Faribole khóc, quỳ rạp dưới chân của Lustucru vô tình.
“Không thương xót gì hết!” Lustucru đáp lại, từng chữ của ông ta ép bật ra qua hàm răng nghiến chặt. “ Không có chuyện từ bi với con mèo hay với anh. Đứng dậy, biến đi, cút ngay! Trời đang mưa, thật dữ dội. Người anh sẽ ướt sũng rồi chết cóng trong đêm nay, quá tuyệt!”
Cơn mưa đang trút xuống xối xả, kèm theo mưa đá dội thẳng vào ô cửa sổ, và gió quét qua hành lang của ngôi nhà kêu nghe ai oán. Faribole tội nghiệp những tưởng cái lạnh sẽ tóm lấy cậu, còn sự nghèo khổ đang chực chờ, với tình trạng ngặt nghèo của cậu, với những lần đói ăn xảy ra liên miên, và sự khổ sở khi ngả lưng trên nền đất lạnh. Con quỷ trong cậu tiếm quyền, và thì thầm vào tai cậu những lời của cha Lustucru:
“Chỉ là một con mèo?”
“Ngài Lustucru,” cậu nói, khóc lóc cầu xin, “Đừng đuổi con đi, con sẽ làm tất cả những gì ngài muốn.”
“Ngày mai, khi đêm xuống, anh sẽ dẫn Moumouth vào vườn?”
“Vâng, ngài Lustucru.”
“Anh sẽ nhét nó vào cái bị này?”
“Vâng, ngài Lustucru.”
“Và anh sẽ đánh nó với ta?”
Câu trả lời của câu hỏi này diễn ra lâu hơn. Faribole mặt xám ngoét, hai chân cậu khuỵu xuống. Cuối cùng, cậu gục đầu, hai tay vô lực rơi xuống hai bên người cậu, như thể cậu đã bị nhấn chìm xuống bởi cái nặng của vận mệnh, rồi cậu lầm bẩm giọng đè nén:
“Vâng, ngài Lustucru.”
Chương 7.
Cha Lustucru sắp đạt được mục đích của ông ta, còn mèo của mẹ Michel đang ở trong hoàn cảnh không mấy tốt đẹp.
Lão Lustucru ấn định ngày hôm sau sẽ là ngày chết của Moumouth, vì ông ta biết là hôm đó mẹ Michel phải đến tòa bưu chính để gửi hàng cho em gái của bà.
Từ sáng đến chiều hôm đó, Faribole chìm trong sự trầm mặc tuyệt vọng, và khi khung giờ chết chóc vang lên, tâm thần cậu như bị bạo hành bởi sự bất lực từ cái kết cục đã định của ngày hôm qua. Khi mẹ Michel, trước khi ra khỏi cửa, nhắn lại với cậu rằng, “Tôi giao Moumouth cho cậu đấy, hãy chăm sóc nó, chơi với nó, như vậy nó sẽ không quá buồn bực vì sự vắng mặt của tôi,” chỉ thế, cậu trai tội nghiệp thấy tim mình như thắt lại, và thiên tính trung thành trong lòng cậu nổi dậy.
“Đến đây, chúng ta không có thời gian để mà lãng phí đâu,” cha Lustucru nói, “cái bị đây, đi bắt con thú vật đó đi.”
Faribole một lần nữa cầu xin sự thương hại của tên quản gia. Cậu vận dụng hết sức khả năng thuyết phục của mình, giọng run rẩy đáng thương, cậu cất lên lời cầu xin cảm động nhất, nhưng cũng như giã tràng xe cát. Tên đồ tể Lustucru vẫn không hề bị lung lay. Ông ta vẫn khăng khăng muốn Moumouth phải chết. Khuất phục trước sự độc tài tàn nhẫn của ông ta, cậu trai đành phải tuân lệnh.
Moumouth để cho Fabirole dẫn mình ra vườn. Chú tin tưởng đi theo người bạn gian trá của mình như cừu đi theo người chăn cừu, và rồi, khoảnh khắc mà chú không thể nào tưởng tượng được ấy xảy ra, chú thấy bản thân mình bị nhét vào một cái bị, cái bị này giờ sẽ là nơi kết thúc cuộc đời của chú. Lustucru, đang trốn nhảy xổ ra, tay cầm hai cái chày lớn. Ông ta đưa một cái cho Faribole, rồi nắm lấy cái bị, hét lên: “Ngay bây giờ! làm việc ngay, cấm có được mủi lòng!”
Faribole không còn nghe được lời ông ta nói. Cậu như dại ra, mắt của cậu đảo điên cuồng trong hốc mắt, mặt cậu vặn vẹo, tay buông thõng không chút sức lực nào.
Cha Lustucru kích động điên cuồng trước cơ hội trả thù sắp đến, không còn tâm trí nào để quan tâm đến cộng sự của mình. Ông ta ném cái bị một đạch lên nền đất, nâng cao cái chày. Khi ông ta sắp sửa đánh xuống thì cánh cửa sau của khu vườn được mở ra.
“Thật đáng tiếc!” Ông ta lầm bầm, “Faribole, trốn sau hàng rào đi, ta sẽ quay trở lại ngay.”
Ông ta tiến về phía người vừa tiến vào, vẻ sững sờ vì kinh ngạc khi nhìn thấy mẹ Michel. Trong một chốc, ông ta nghĩ rằng bà ấy trở lại vì đã lờ mờ nhận ra được điều gì đó. Nhưng xốc lại tinh thần, ông ta nghe bà ấy nói:
“Tôi phải dừng chuyến đi của mình vì tôi có thấy xe ngựa của Madame de la Grenouillère trở lại. Nó không đi thẳng vào được vì đoạn đường đang sửa chữa. Nếu tôi băng qua khu vườn thì tôi sẽ về kịp để đón nữ bá tước. Đến đây nào, ngài Lustucru, cùng tôi đi đón phu nhân.
“Đến ngay đây, thưa bà,” tên quản gia đáp, không quên nói khẽ với Faribole:
“Đánh nó! Đánh cho đến khi nó không còn cựa quậy nữa!” Rồi ông ta đi cùng với mẹ Michel ra sảnh chính, nơi các gia nhân trong nhà đã sắp sẵn thành hàng.
Bước xuống xe ngựa, Madame de la Grenouillère tán thưởng những gia nhân của mình bằng cách tặng họ một cái nhìn ấm áp, bà xúc động ôm lấy cái ôm quen thuộc của mẹ Michel, và hỏi về Moumouth.
“Anh bạn của phu nhân khoẻ lắm,” mẹ Michel nói, “Chú béo lên và đẹp ra mỗi ngày. Nhưng phải nói, không phải sự thật mất lòng đâu, tính tình của Moumouth đã tốt hơn nhiều, còn hơn cả ngoại hình dễ mến của chú nữa.”
“Anh bạn đáng thương, nếu chú còn không yêu mến ta thì chú quả là con quỷ vô lương tâm. Từ khi ta rời đi ta luôn nghĩ về chú. Thiên đàng đã tách khỏi ta những người ta yêu thương, nhưng Moumouth sẽ là niềm an ủi cho tuổi già của ta!”
Ngay khi nữ bá tước vào đến nhà, bà lập tức bảo mẹ Michel đi đón Moumouth.
“Moumouth sẽ rất vui khi gặp lại người,” mẹ Michel trả lời. “Chú đang ở trong vườn với Faribole. Faribole là cậu trai trẻ được ông quản gia dẫn vào làm, cậu trai đặc biệt đó với Moumouth chơi rất thân với nhau đấy ạ.”
Mẹ Michel đi ra vườn và tìm thấy Faribole đang ngồi một mình trên ghế dài với vẻ mặt sầu não, tay vặt hết lá từ một nhành cây hoàng dương.
“Này anh bạn,” mẹ Michel nói, “Bá tước phu nhân muốn gặp Moumouth.”
“Moumouth!” Faribole ngập ngừng, nhắc đến cái tên như thể cậu bị đốt bởi một con tò vò.
“Đúng rồi, Moumouth. Tôi tưởng chú ở cùng cậu.”
“Chú mời rời đi. Ai đó ngoài đường gây tiếng động làm chú giật mình, rồi chú chạy biến vào chỗ hàng rào.”
Mẹ Michel sau khi giành cả nửa tiếng đồng hồ để gọi chú mèo, quay lại với Madame de la Grenouillère và nói: “Moumouth không có ở trong vườn, thưa phu nhân. Nhưng người không cần lo lắng quá, có lần chú đã biến mất như vậy và chúng tôi đã tìm thấy nó trên căn gác xép.”
“Tìm chú đi! Ta không muốn đợi. Ta muốn thấy nó ngay!”
Nhưng hỡi ơi! mong muốn này có vẻ như sẽ không có cách nào đáp ứng được, nếu ta dựa vào những lời trao đổi bí mật giữa Lustucru và đồng bọn của ông ta.
“Chà, anh làm xong nó chưa?”
“Vâng, thưa ngài Lustucru, tôi đã đánh nó cho đến khi nó ngừng cựa quậy.”
“Cái xác, cậu xử lý ra sao?”
“Tôi đã vứt nó xuống sông Seine.”
“Nó chết rồi đúng không?”
“Nó không rên lấy một tiếng.”
“Sao cũng được, ta đã buộc chặt đầu bị lại rồi. Mọi chuyện đã xong xuôi!”
Chương 8.
Mẹ Michel lại đi tìm con mèo của bà
Nhiều ngày trôi qua trong kỳ vọng và đau khổ, nhưng chú mèo cũng giống như công tước Marlborough, một đi không trở lại. Sự tuyệt vọng của Madame de la Grenouillère ngày càng rõ ràng, mãnh liệt nhưng câm lặng, nỗi tuyệt vọng càng đè nén càng trở nên sâu sắc hơn. Phu nhân thường tưởng tượng ra hình ảnh của Moumouth, những điểm tốt hay sự thông minh phi thường của chú. Không một con vật nào có thể cho bà thấy nhiều ưu điểm tốt đẹp như Moumouth, ngay cả những thú cưng năm xưa cũng không dấy lên trong lòng bà nhiều tiếc nuối như thế này,
Sự bất hạnh của bà là to lớn, tuy vậy bà không trách móc mẹ Michel, ngược lại, nữ bá tước còn an ủi người đàn bà khốn khổ đó, người đã hoàn toàn gục ngã vì không chịu nổi nỗi đau này. Vào một đêm nọ, nữ bá tước nói với mẹ Michel:
“Làm sao chúng ta địch lại được với thế sự xoay vần? Con người khôn ngoan không phải ở chỗ gắng sức đối chọi lại nỗi đau khổ, mà là nương theo mong muốn của chúa trời.”
“Tôi cũng nghĩ như phu nhân, ” mẹ Michel đáp lại. “Nếu tôi tin như vậy, rằng Moumouth đã chết, tôi sẽ rời đi không tiếng oán thán. Nhưng tôi vẫn tin là chú còn sống, tôi đã tưởng tượng cảnh chú chạy trên phố, bị đánh đập, bằng một cái chảo.”
“Thôi nào, mẹ Michel, đừng tự lừa dối bản thân, Moumouth đã chết rồi, nếu không thì nó đã trở về với chúng ta.”
“Có điều gì đó nói với tôi rằng chú còn tồn tại trên cõi đời này, nếu phu nhân muốn tìm Moumouth tôi có thể nhờ bà ấy”
“Ai?”
“Hàng xóm của chúng ta, bà Bradamor, bà ấy là một bà đồng nổi tiếng, người có thể đoán trước tương lai, xóa đi nốt tàn nhang, đọc được mệnh cách, và làm tiêu biến đi cơn đau răng.”
“Không thể nào, mẹ Michel! Làm thế nào, một người phụ nữ lý trí như bà lại có thể tin vào mấy lá bài được?’’
“Nhưng, thưa phu nhân, đâu phải chỉ mình tôi. Kể cả những con người giỏi giang nhất cũng tìm đến bà Bradamor. Bà ấy giỏi hơn và không mấy thiện cảm so với những bà đồng khác, và bà ta chỉ yêu cầu 10 đồng nếu khách muốn thấy con quỷ Astaroth.”
“Đủ rồi, lạy chúa lòng lành!” Nữ bá tước nói giọng khô khốc.
Mẹ Michel giữ im lặng, nhưng trong lòng đã quyết. Lần đầu tiên, bà cảm giác thấy bản thân đã được giải thoát, mẹ Michel chạy ngay đến chỗ bà đồng Bradamor.
Bà đồng sống trong một căn hộ rộng rãi được trang trí bằng các loại đồ nội thất sang trọng, rõ ràng công việc lừa đảo này đã giúp bà ta kiếm được bộn tiền. Phòng làm phép của bà ta treo kín những tấm vải nhung đen điểm xuyết họa tiết sao lấp lánh màu vàng gold. Phía trên cái bàn vuông được đặt ngay giữa căn phòng, có đặt một tháp bút bằng thiếc, một quả cầu điện, ống thí nghiệm, và một bộ dụng cụ đo lường toán học, mà những đồ vật đó hầu như bà đồng không biết sử dụng. Bà ta chỉ bày ra đó để tạo áp lực lên thần trí vốn dĩ đã bất ổn của những vị khách tìm đến nơi bà ta mà thôi.
Đầu tiên, bà ta có vẻ hơi mất tự nhiên khi đón mẹ Michel vào cửa, tuy nhiên sau khi cái cửa kính thông ra các gian phòng khác đã được đóng kín, bà ta quay sang chào vị khách, với vẻ trang nghiêm:
“Nguyện vọng của bà là gì?”
“Là cho hiện tại, quá khứ hay là tương lai.”
“Tôi sẽ là người giải đáp tất cả,” Madame Bradamor nói, “nhưng không phải dễ dàng như vậy, cái giá phải trả là 3 đồng crown.”
“Chúng đây, tôi đem chúng cho bà với tất cả lòng tin của tôi.”
Madame Bradamor, hối hận vì đã không đòi thêm, cất tiền vào túi rồi bắt đầu buổi làm phép:
“Bà sinh năm nào?”
“Ngày hai tư tháng năm 1698.”
“Nói cho tôi biết chữ cái đầu tiên nơi bà sinh ra cũng như chữ cái đầu tiên trong tên của bà?”
“A, R, M, N, L, S.”
Madame Michel có tên là Anastasie Ravegot, là góa phụ đã được mười hai năm, chồng bà là François Michel, làm nghề kiểm định bơ ở chợ Paris. Bà sinh ra ở Noisy-le-sec.
“Loài hoa yêu thích của bà là gì?”
“Hoa cúc vu.”
Sau khi hỏi mấy câu theo thông lệ, bà đồng bắt đầu soi xét bã cà phê được đổ trong một cái đĩa, rồi nói:
“Phaldarus, thần đèn, vị đấng của những điều huyền hoặc, đã nói cho tôi biết rằng bà đến đây để tìm một ai đó rất quan trọng đối với bà.”
Mẹ Michel bật ra khỏi ghế kinh ngạc.
Madame Bradamor tiếp: “Nhưng không phải là một con người, là động vật bốn chân, mèo hay là chó. Ariel, vị thần của thiên đàng, mách nhỏ với tôi đó là một con mèo.”
Mẹ Michel càng ngày càng ấn tượng. Bà đồng không để thời gian cho mẹ Michel bình tâm trở lại mà vớ ngay lấy một bộ bài, xóc chúng, chia ra ba lần rồi phát bài lên bàn theo một trình tự, bà ta nghiêm giọng:
“Mèo của bà ứng với lá Bồi chuồn. Để xem chuyện gì đã xảy ra với nó. Một, hai, ba, bốn; lá mười bích! Nó là một kẻ lang thang, rất ham chuyện ngao du đó đây, nó thường đi khi đêm xuống để thăm thú một Paris bí ẩn. Một, hai, ba, bốn; quân Đầm bích! Một người phụ nữ chuyên lột da mèo. Một, hai, ba; bốn, quân Bồi bích! Một kẻ nhặt rác. Một, hai, ba, bốn; quân Già bích! Một chủ quán ăn. Ba người này xuất hiện cạnh nhau khiến tôi hơi lo lắng đấy. Một, hai, ba, bốn, quân chuồn! Một, hai, ba, bốn, lại là chuồn nữa. Một, hai, ba, bốn, luôn luôn là quân chuồn. Mèo của bà có thể mang đến tiền tài cho ba người này: tên nhặt rác muốn giết nó để bán da nó cho người đàn bà lột lông mèo, và bán thịt nó cho chủ quán ăn, người sẽ lừa gạt khách hàng đó là món thỏ hầm. Mèo của bà liệu có thể thoát khỏi những tên đồ tể này? Một, hai, ba, bốn,... bảy quân bích! Thế là hết, thưa bà, mèo của bà đã không còn!”
“Bọn chúng ăn mèo của tôi rồi ư, lũ ăn thịt người!” mẹ Michel thét lên, run rẩy, bà tưởng như nghe thấy tiếng rên đau khổ yếu ớt của Moumouth. Nhưng đó không phải do ảo giác, tiếng mèo kêu là thật, tiếng phát ra từ căn phòng bên cạnh. Đột nhiên, tấm cửa kính vỡ tan ra và Moumouth bằng xương bằng thịt ngã nhào dưới chân mẹ Michel.
Từ trên tủ, Moumouth đã nhìn thấy người chăm sóc thân yêu của chú. Chú đã gọi bà rất nhiều lần, nhưng bà không trả lời, vậy nên nó mới phải liều mạng đâm mình vào cánh cửa thủy tinh mong rằng sẽ tông vỡ được một lối đi.
“Mèo của tôi ở với bà ư!” Mẹ Michel nói. “Bà ăn cắp! Chủ nhân của tôi rất quyền lực, bà ấy là nữ bá tước Yolande de la Grenouillère, phu nhân sẽ trừng phạt bà thích đáng!”
Trong lúc đe dọa, mẹ Michel bao bọc Moumouth trong vòng tay của mình, sẵn sàng bỏ đi. Bà Bradamor chặn bà lại và nói:
“Xin đừng báo cáo tôi! Tôi không hề trộm mèo của bà!”
“Vậy sao nó ở trong nhà của bà?”
“Tôi có nó từ một chàng trai trẻ tên Faribole. Nó đưa mèo cho tôi, từ lâu tôi đã mong muốn có một con mèo bởi sự khác người trong hình dạng và vẻ ngoài của loài mèo có thể giúp tôi tăng vẻ huyền bí. Đây là sự thật, hoàn toàn là sự thật Tôi cầu xin bà đừng để vị chủ nhân của bà phá đi việc làm ăn của tôi.”
“Nữ bá tước sẽ làm những gì bà ấy cho là hợp lý,” Mẹ Michel cao giọng đáp lại rồi rời đi với mèo của bà.
Mẹ Michel nhanh chóng trở về dinh thự, như thể dưới chân bà có mang đôi hài vạn dặm của cậu bé Ngón tay cái. Bà còn không rung chuông cửa, mà hổn hà hổn hển chạy ngay đến dâng Moumouth lên cho nữ bá tước.
Nhận ra con mèo của mình, phu nhân òa lên khóc vì sung sướng.
Lustucru cũng đóng vai trò quan trọng trong cảnh tượng cảm động này. Nhìn thấy con mèo, ông ta ngớ người ra, lý trí thì bay đi đâu mất. Ông ta những tưởng rằng, con mèo là một sinh vật huyền bí, một con linh thú trong truyện cổ tích, ông ta rùng mình lẩm bẩm: “Ta thua rồi! Con mèo sẽ tố giác ta!”
Chương 9.
Cái kết có hậu cho mọi người ngoại trừ nhân vật phản diện
Sau khi biết được chuyện Moumouth bị mất cắp thế nào Madame de la Grenouillère ngay lập tức yêu cầu Faribole trình diện.
“Tôi sẽ tìm cậu ấy ngay thưa phu nhân.” Cha Lustucru hào hứng đáp. Ông ta đang rất sốt ruột muốn tìm Faribole để đe dọa cậu không được tiết lộ mọi chuyện.
“Không, ở lại đây! Chính ông là người đem cậu ta vào đây, và bây giờ cậu ta sẽ bị sa thải. Lần sau, ông sẽ phải học cách đặt sự tin tưởng của mình một cách khôn ngoan hơn.“
Lustucru ở lại, cố gắng trấn tĩnh, chuẩn bị sẵn sàng chối bay chối biến mọi thứ, nếu Faribole cả gan tố cáo ông ta.
Trình diện trong phòng khách, Faribole không thể chờ để được thẩm vấn.
“Thưa, phu nhân” cậu nói, “Sự hiện diện của Moumouth ở đây là đủ để nói cho con biết, tại sao người gọi con. Nhưng con không hề tội lỗi như người tưởng. Hãy cho phép con giải thích.”
“Vô ích thôi,” Madame de la Grenouillère nó, “Không có chuyện ngươi sẽ được thanh minh cho bản thân.”
Tên quản gia, tin rằng hiện giờ tốt nhất là chơi biện pháp cứng rắn liền cất giọng lạnh lùng:
“Tôi thực sự rất tò mò muốn biết tên lừa đảo này có thể bịa chuyện như thế nào,” Ông ta rất ý tứ thả chậm từng chữ, liếc mắt uy hiếp: “Nếu ngươi dám tố cáo ta, ta sẽ cho ngươi biết thế nào là phiền phức thật sự!”
Không để bản thân trở nên bối rối, Faribole lập tức nói:
“Chuyện này cần phải làm rõ ra thưa phu nhân. Con vào đây làm với mục đích là để trộm Moumouth. Bà đồng muốn có được chú, để huấn luyện chú giả đóng thành con quỷ Astaroth. Và bà ấy hứa sẽ cho con một đồng crown và sáu livres cùng với một đôi giày. Nhưng mọi người đối xử với con rất tốt, và Moumouth đối với con là sự quý mến đến mức con muốn từ bỏ kế hoạch xấu xa của mình. Con không bao giờ, không bao giờ làm thế, nếu không phải vì để bảo vệ chú khỏi sự hãm hại của tên sát nhân giấu mặt, có người ở đây muốn giết chú.”
“Vậy đó là ai nào?” Lustucru ra lệnh
“Chính là ông! Ông bảo với tôi, ‘Giết Moumouth, hoặc ta sẽ đuổi anh ra khỏi đây!’”
“Ta, ta có nói như vậy ư! Quả là gian trá! A, bá tước phu nhân, người hiểu ta đủ để không tin vào lời bịa đặt của tên nhóc này đúng không?”
“Faribole,’’ nữ bá tước trầm giọng, “Lời buộc tội của ngươi rất nghiêm trọng, ngươi có bằng chứng không?”
“Bằng chứng ư, chúa ơi! Không, thưa bà. Nhưng con thề rằng…”
“Đủ rồi,” nữ bá tước ngắt lời, “đừng giảo biện nữa, ta yêu cầu cậu đi ngay.”
Cậu Faribole khốn khổ còn muốn giải thích thêm nhưng Lustucru đã nhận lệnh của Madame de la Grenouillère, ông ta tóm lấy cậu và thô lỗ lôi thẳng cậu ra cửa. Tên quản gia ném cậu xuống bậc thang không hề do dự như thể ngăn chặn cậu khỏi nói ra thêm bất cứ lời buộc tội nào.
Tuy nhiên, Lustucru không phải cứ như vậy mà thoát được tội. Cùng ngày hôm đó, mẹ Michel trong lúc sắp xếp lại đồ đạc trong phòng chung đã rất kinh ngạc khi phát hiện ra một số xác chuột chết trong phòng. Bà tò mò về nguyên nhân cái chết của lũ chuột, và nhận ra đĩa đồ ăn lúc trước Moumouth không động vào vẫn được đặt ở đó chưa được dọn đi. Có hai xác chuột chết trong đĩa thức ăn mà rõ ra là chết do thuốc độc!
Phát hiện này của bà đã vạch trần được mưu mô của Lustucru, lòng mẹ Michel dấy lên dự cảm rằng lời buộc tội của Faribole là có cơ sở. Bà nhanh chóng báo cáo sự việc cho Madame de la Grenouillère, người bảo bà ấy trước tiên hãy cứ làm thinh như không biết và cho gọi tên quản gia đến.
“Ông còn thuốc chuột không?” Bà hỏi.
“Còn, thưa phu nhân, tôi nghĩ tôi vẫn còn một ít.”
“Chúng ta cần phải bỏ một ít ở phòng chung, ông có nghĩ vậy không??”
“Không thưa phu nhân, tôi không biết trong phòng chung cũng có chuột?”
“Rất tốt, ông có thể nghỉ việc.”
Madame de la Grenouillère đã viết thư mời một nhà hóa học nổi tiếng để kiểm định đĩa thức ăn đó, kết quả cho thấy bên trong có chứa một lượng lớn chất độc.
Tội ác của Lustucru đã được vạch trần và rất nhanh các bằng chứng khác cũng lần lượt được phát hiện. Câu chuyện của Groquemouche và Guignolet được các thợ đánh cá bàn tán; Faribole nghe câu chuyện đó từ một trong số họ và tìm ra một người đã thấy Lustucru ném Moumouth từ cầu Notre Dame.
Còn tên quản gia, chỉ tiếc rằng hắn không bó tay chịu chết mà đã nhanh chóng cao chạy xa bay, tránh thoát khỏi sự trừng phạt của phu nhân Grenouillère. Hắn ta làm đầu bếp cho một con tàu chở hàng trên biển Địa Trung Hải.
Phần sau đó là, con tàu đã bị đắm ở quần đảo Sandwich, và các thổ dân man rợ đã ăn thịt Lustucru. Người ta kể lại rằng, kể cả cho đến lúc chết thì lời trăn trối của ông ta cũng chỉ là một chữ, tên của Moumouth.
Tại sao tên đồ ấy lại thốt lên từ ấy? Phải chăng hắn ta đã biết hối cải? Hay cũng chỉ là bởi nỗi căm thù mãnh liệt bên trong hắn ta? Thật đáng tiếc, chúng ta sẽ không thể biết được câu trả lời.
Sức khỏe của Madame de la Grenouillère phải chịu ảnh hưởng nghiêm trọng từ cú sốc mất đi thú cưng của mình. Sự quan tâm dịu dàng trìu mến của Moumouth có lẽ đã có thể giữ bà ở lại với cuộc đời này, nhưng vị phu nhân đáng kính tuổi đã cao, và đối với bà nỗi sầu khổ là nặng nề quá sức. Vào một buổi sáng nọ, mẹ Michel đau khổ phát hiện Madame de la Grenouillère ở trên giường thân thể đã lạnh. Gương mặt của bà thanh thản, đúng như con người đáng quý của bà, tưởng như bà chỉ đang ngủ. Bà ra đi lúc 79 tuổi.
Làm theo những gì phu nhân phó thác, vị luật sư của bà đã để lại cho Moumouth và mẹ Michel phần thu nhập hai ngàn livres, theo đó, nếu như một trong hai chết thì số tiền sẽ thuộc về bên còn lại.
Mẹ Michel sống tại một ngôi nhà gần em gái của bà, bà chu cấp thật chu đáo cho các đứa cháu của bà, và nơi ở của bà là một ngôi nhà xinh xắn ở Low-Breton nằm ngay cạnh bờ sông và được bao bọc bởi những hàng cây xanh.
Faribole được nhận lại phục vụ cho Madame de la Grenouillère, cậu ấy thể hiện tốt đến mức mà mọi lỗi lầm xưa kia đều được xí xóa. Cậu ấy đã có thể làm trong phòng bếp của nữ bá tước, nhưng cậu lại muốn phục vụ cho đất nước hơn, và đã nhập ngũ vào năm mười sáu tuổi trong một trung đoàn bộ binh. Faribole tham gia vào cuộc chinh phục đảo Majorca dưới trướng của Nguyên soái Richelieu, và đã được thăng lên làm hạ sĩ sau khi chiếm được Cảng Mahon ngày 29 tháng 6 năm 1756. Sau khi cậu giải ngũ, cậu đến sống gần mẹ Michel, người mà cậu có tình cảm gắn bó hết mực sâu sắc. Cuộc sống của họ chỉ còn sự yên bình và hạnh phúc đi kèm với chú mèo Moumouth càng ngày càng trở nên dễ mến.
Từ đó trở về sau, cuộc sống của Moumouth không còn kẻ thù. Trái ngược với cuộc sống xưa kia , chú bây giờ đạt được sự ngưỡng mộ và tình cảm yêu mến từ mọi người. Cuộc phiêu lưu của chú giúp chú trở nên nổi tiếng. Người ta còn viết thơ về chú, mà thực tiếc là chúng chỉ còn sót lại đôi ba câu, phần lớn tác phẩm về Moumouth của văn sĩ thời đó đều không thể đến được tay chúng ta. Chú còn có vinh dự được gặp mặt với rất nhiều nhân vật có tiếng tăm, thậm chí là cả nhà vua, trong một lần đến lâu đài Bellevue, cũng ghé qua thăm chú.
Một phu nhân cao quý trong triều đình đã chiếu cố Moumouth, ban cho chú một người bạn đồng hành rất hiền lành và xinh đẹp, Moumouth rất cảm kích vị phu nhân đó vì điều này. Khi nhìn bản thân đã trở thành một người cha, cũng là lúc niềm hạnh phúc của Moumouth là to lớn vô bờ bến. Mẹ Michel cũng vậy, bà cảm tưởng như mình được sống lại nhờ lớp mèo hậu duệ của Moumouth.
Bạn còn muốn biết sau đó Moumouth ra sao? Chú chết nhưng là cái chết sau khi cuộc đời dài đầy ắp niềm vui của chú đã tận. Hài lòng ngắm nhìn con cháu mình ướt lệ đau thương với đôi mắt đong đầy tình cảm ngọt ngào, chú nhắt xuôi tay. Sau khi chết, thân xác của chú không bị đối xử như những con mèo bình thường. Mẹ Michel đã xây cho chú một ngôi mộ tráng lệ bằng đá cẩm thạch trắng. Theo như phong tục, khi khắc tên trên lăng mộ của những người kiệt xuất, tên họ được khắc bằng tiếng Latin và Moumouth cũng vậy, Moumouth, cái tên được đặt bởi một vị giáo sư hàng đầu đại học Paris.
Comments